Nhà thơ Nguyễn Phan Quế
Mai
Khi những âm
hưởng thơ Du Tử Lê vẫn còn vang trong tâm trí, xe đưa tôi tiến vào một
con phố thanh bình, hai bên đường là những căn nhà nằm nguy nga giữa những khu
vườn thênh thang cỏ. Rồi xe dừng lại
trước khuôn viên rộng rãi của một ngôi nhà yên bình, lặng lẽ giữa con phố
thưa người. Một nốt nhạc giữa thiên
nhiên bao la và khoáng đạt. Một ngôi nhà nhìn bề ngoài rất Tây, rất Mỹ.
Nhưng cảm giác
ban đầu về ngôi nhà "rất Mỹ" ấy hoàn toàn sai khi tôi bước chân vào tổ
ấm của thi sĩ Du Tử Lê, nơi ông đã sáng tác nhiều tác phẩm trong gia tài
hàng nghìn bài thơ, trong đó có hơn
300 bài đã được phổ nhạc. Đằng sau cánh cửa vững chãi vừa mở ra đón tôi
và Jenny vẫn là dáng người dong dỏng
gầy của thi sĩ 76 tuổi - người vừa trải qua cơn bạo bệnh. Nhưng bệnh tật và tuổi
tác không hề hiện lên trên khuôn mặt sáng ngời, rạng rỡ nụ cười nồng ấm của
ông.
Ông mời chúng
tôi vào nhà bằng giọng trầm quen thuộc. Tiếng Việt thuần túy của ông cho tôi cảm
giác chúng tôi đang gặp nhau ở quê cha đất tổ, chứ không phải ở Garden Grove -
cách Sài Gòn hơn 13.000 km.
Chuyện trò
với tôi và Jenny ở phòng khách, nhà thơ Du Tử Lê tiếp tục hỏi rất nhiềuvề đời sống văn học trong nước. Đã
định cư ở Mỹ 43 năm nay, nhưng quê hương vẫn hiện diện trong từng nhịp tim, hơi thở của ông. Những tủ sách đồ sộ
vây quanh chúng tôi minh chứng cho điều đó: trong hàng nhìn cuốn sách mà
ông sưu tập cho công tác nghiên cứu
và biên soạn, sách về Việt Nam và viết bằng tiếng Việt chiếm đại đa số.
Tôi lướt mắt
qua hàng trăm tác phẩm văn học nghệ thuật quý hiếm, rồi dừng lại trước hai quyển dày cộp, gáy đã sờn:
Tục ngữ ca dao Việt Nam và Cây cỏ vị thuốc ở Việt Nam. Bây giờ tôi mới hiểu tại
sao các tác phẩm thơ Du Tử Lê lại rộng
và sâu đến vậy: chúng đã băng qua bao chân trời góc biển cùng ông, để rồi
nảy nở sinh sôi giữa biển kiến thức mang tầm quốc tế nhưng vẫn mang theo hồn
vía và tinh thần người Việt.
Quê hương hiện
diện mọi nơi tại tổ ấm của ông. Bức tường rộng lớn cạnh phòng khách treo
những thủ bút của bạn bè thân quý. Tôi không khỏi rưng rưng khi đọc những bài thơ viết tay của các
nhà thơ Hoàng Cầm, Mai Thảo, Huy Cận... cùng những dòng chữ ghi trên gỗ
của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, họa sĩ Lê Thiết Cương... Dường như bút tích của những văn
nghệ sĩ Việt Nam - những người đã ra đi mãi mãi hoặc đang sống ở bên kia
đại dương - chính là những tác phẩm nghệ thuật mà nhà thơ Du Tử Lê nâng niu nhất.
Những người am
hiểu về thơ Du Tử Lê hẳn cũng biết rằng ông còn là một họa sĩ tài hoa, với
các tác phẩm được nhiều nhà sưu tập
săn lùng. Được tận mắt chiêm ngưỡng những bức tranh do ông sáng tác được bày
trí trong nhà, tôi dừng lại hồi lâu trước những nét vẽ phóng khoáng, mới mẻ và
đầy sinh lực. Không chỉ trẻ trung trong thi ca, nhà thơ Du Tử Lê dường như là một
họa sĩ không có tuổi trong hội họa. Những tác phẩm mà ông vẽ để tặng vợ mình
- bà Hạnh Tuyền - nói lên điều ấy. Đó là những bức tranh mê hoặc của tình yêu,
được vẽ lên cùng với những câu thơ
ghi nắn nót ở góc tranh: "Nhan sắc nàng duy nhất một ngôi thôi!".
Thi ca nở tung
ở khu vườn xanh mát, nơi gần trăm gốc lan vươn những búp xanh mơn mởn, dưới
bóng mát của giàn chanh leo. Ngồi đó cạnh ông, dưới những cây hoa lan rung rinh
tỏa sắc xuống bể nước – nơi những chú cá vàng tung tăng và an nhàn bơi lội, tôi
hiểu nhà thơ Du Tử Lê không chỉ yêu con người mà còn mê đắm thiên nhiên,
vạn vật.
Khu vườn của
ông, ngoài cây cỏ của Việt Nam, có cả những chiếc tổ chim bằng rơm mà ông đã
kỳ công mang từ quê nhà sang. Dường
như thời gian quay chậm lại ở nơi đây, cạnh những bức vẽ đang dang dở của ông
và bức tường gỗ cạnh giá vẽ nơi ông đã nắn nót câu thơ: "Làm sao em biết khi xa bạn/tôi cũng như
chiều tôi mồ côi".
Thành công
trong sự nghiệp, hạnh phúc trong cuộc sống gia đình, không cần bươn chải lo toan về tài chính, tưởng như
nhà thơ Du Tử Lê đang có tất cả. Nhưng không. Khi trò chuyện, tôi nhìn
thấy trong đôi mắt ông một nỗi đau đáu nhớ quê hương. Ông tâm sự rằng, nỗi nhớ đó luôn bùng lên trong dịp Tết, nhất là khi
màn đêm buông xuống. Đặt chân sang Hoa Kỳ vào năm 1975, ông đã trải qua
những cái Tết đầu tiên đầy khó khăn.
Tết là thời điểm đặc biệt của cuộc đời mỗi người. Nhưng đối
với nhà thơ Du Tử Lê, kỷ niệm Tết
đáng nhớ nhất của ông, thật không may, là một kỷ niệm kinh hoàng. Gần 60 năm đã
trôi qua nhưng ông vẫn còn nhớ
rõ đêm mồng 3 Tết ở Kim Bảng, Hà Nam. Lúc đó ông còn rất nhỏ, chừng 7 tuổi và vẫn
ngủ chung với mẹ. Thình lình có người
dồn dập đập cửa nhà. Mẹ ông hấp tấp tung chăn đi ra. Ông cũng chạy theo, để rồi
chứng kiến hình ảnh mẹ ngã quỵ xuống sân nhà. Người tìm đến nhà ông vào đêm đó, thay vì quà
Tết, đã đem theo tin dữ: anh cả của ông đã bị máy bay Pháp bắn chết ở Khu Tư, Thanh Hóa.
Sự kiện đêm
mùng 3 Tết ấy luôn dai dẳng đeo bám, ám ảnh nhà thơ Du Tử Lê, để rồi nỗi buồn
cũng lan tỏa vào thơ ông. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà thơ Mai Thảo, ông đã
nói: "Tôi không có Nguyên Đán dù trong văn chương hay đời thường sau cái
chết của người anh cả, vào ngày mồng 3 Tết ở Khu Tư".
Đi qua chiến
tranh và bao biến động của cuộc đời, Du Tử Lê đã gieo trồng thi ca không
chỉ với tình yêu dành cho quê hương
mà còn trên khu vườn của buồn
đau và nước mắt. Ông đã vắt kiệt mình, cần mẫn gạn lọc để dâng hiến cho
đời những tinh hoa cảm xúc - những vần thơ dù buồn nhưng lóng lánh vẻ đẹp của tình yêu và nhân
ái.
Trong những email gần đây, nhà thơ Du Tử Lê tiếp tục trao đổi với tôi về vấn đề văn
học mà chúng tôi cùng quan tâm. Tôi hẹn sẽ cùng Jenny Nguyễn đến thăm ông vào
tháng 3 năm 2020 khi tôi sang Mỹ ra mắt sách. Vì thế, việc ông rời xa
cõi tạm khiến tôi không khỏi bàng hoàng.
Và tôi nhớ tới những câu thơ đầy khắc khoải về cái chết mà ông đã viết
từ năm 1968: "Hãy nói về cuộc đời/ Khi tôi không còn nữa/ Sẽ lấy được những
gì/ Về bên kia thế giới..."
NGUYỄN PHAN QUẾ MAI
Nguồn: VNEX
___________
Tiêu đề bài viết là một
câu thơ
trong bài "Khúc Thụy Du" của nhà thơ Du Tử Lê.
ĐỌC BÀI
KHÁC: