Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

SÔNG CÔN MÙA LŨ CỦA NGUYỄN MỘNG GIÁC: SỰ KHÁM PHÁ NHÂN CÁCH VĂN HÓA VIỆT

Bộ trường thiên tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Mộng Giác viết về người anh hùng áo vải Quang Trung được xuất bản lần đầu tại Hoa kỳ đầu thập  kỷ 80. Năm 1998, Sông Côn mùa lũ được NXB Văn học tái bản lần đầu trong nước gây tiếng vang lớn trong đời sống văn học Việt Nam. Đài tiếng nói VN đã đọc toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác trong suốt 6 tháng, cuốn hút sự say mê theo dõi của đông đảo độc giả. Từ ấy đến nay, bộ sách của Nguyễn Mộng Giác đã được tái bản trong nước đến lần thứ ba và được Đài TH TP Hồ Chí Minh mua bản quyền để làm phim truyền hình dài tập.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác và bộ tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ

Cái nhìn mới mẻ táo bạo về người anh hùng áo vải

Lịch sử Việt Nam có không ít những nhân vật lớn với tầm vóc tạo dựng thời đại mà cuộc đời của họ tự nó đã là những pho tiểu thuyết. Song rất tiếc, cho đến nay tiểu thuyết lịch sử Việt Nam mới chỉ dừng lại ở sự khai thác có tính chất minh hoạ lịch sử về một vài giai đoạn và một số khía cạnh của những nhân cách văn hoá lớn này. Rất hiếm tác phẩm tái hiện các anh hùng dân tộc một cách toàn diện, từ góc nhìn nhân văn và thế sự, tái tạo lại quá trình hình thành và sự toả rạng của những nhân cách lớn này, trong khuôn khổ một thời đại lịch sử, càng rất hiếm tác phẩm trình bày họ như là những nhân cách văn hoá Việt Nam vừa gần gũi, bình dị, vừa hấp dẫn, cao siêu .

Trong bối cảnh đó, bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ trên 2000 trang của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Việt kiều Mỹ, được NXB Văn học Hà Nội tái bản năm 1998 đã trở thành một sự kiện văn học đáng kể vì đem đến cho người đọc một bức tranh hoành tráng về thời đại Tây Sơn, trên đó nổi bật lên hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung như một nhân cách văn hoá lớn , có sự cuốn hút trí thức đương thời, một nhân cách bắt rễ sâu vào trong từng số phận bé nhỏ của đời sống và vươn tới tầm vóc tạo dựng thời đại.

Người anh hùng Nguyễn Huệ bấy lâu vẫn định hình trong chính sử và dã sử như một người nông dân áo vải cờ đào mà cái ấn tượng về cốt cách nông dân võ biền, mạnh mẽ của ông đã in đậm trong tâm thức số đông như một ấn tượng lịch sử. Người ta đã quen coi Nguyễn Huệ như một hình ảnh tượng trưng cho những người nông dân chân đất, quật cường, dũng mãnh, song dường như cái khí phách anh hùng ấy không thể có chung nguồn mạch với văn hoá Nho giáo nói riêng và tư duy bác học nói chung. Nếu như trong Phẩm tiết, Nguyên Huy Thiệp đã khai thác cái ấn tượng võ biền này để tạo dựng một Quang Trung thế tục, sàm sỡ và cao ngạo đế vương thường gây tranh cãi, thì trong Sông Côn mùa lũ Nguyễn Mộng Giác đã cãi lại định kiến văn hóa này khi trình bày Nguyễn Huệ như một nhân cách trí thức hấp thụ các tinh hoa văn hoá bác học qua một ông đồ là giáo Hiến, tiếp thu các đạo lý từ Nho giáo, và từ nhiều nguồn khác để trở thành nhân vật anh hùng.

Theo dõi quá trình hình thành nhân cách này ta thấy rõ bản lĩnh của Nguyễn Huệ không phải đơn thuần là sự thăng hoa của bản năng giải phóng trong con người nông dân, mà là sự tự khẳng định có ý thức của một nhân cách văn hoá mới trong thời đại ấy. Do đó sức mạnh của người anh hùng Nguyễn Huệ không phải là quyền lực hoang dã của bạo chúa. Chính cốt cách văn hoá, bản chất trí thức này đã tạo cho nhân vật Nguyễn Huệ trong tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác có một sức hấp dẫn lôi cuốn trí thức đương thời.

Nguyễn Mộng Giác đã rất tinh tế và cao tay khi trình bày quá trình vừa hút vừa đẩy của Quang Trung với Nho giáo nói chung và các sĩ phu Bắc Hà nói riêng. Hấp thụ đạo Nho từ thuở ấu thơ, Nguyễn Huệ trong tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác đã vượt lên đạo Nho, tìm thấy trong đời thường và trong lịch sử cái lý lẽ phê phán những hạn chế của đạo Nho và những hủ nho trong đó có giáo Hiến thầy mình. Tuy đánh giá thấp tầm vóc và bản lĩnh văn hoá của những tri thức đương thời, nhiều lúc giận họ, căm thù họ, cảm thấy bất lực trước sự bảo thủ và gàn dở của họ, thậm chí có lúc định giết họ, nhưng Nguyễn Huệ vẫn không nản trí trong việc tìm đến họ, tha thiết lôi họ vào dòng chảy thác lũ của khởi nghĩa nông dân.
Chính cái nhìn mới, cái nhìn giải phóng, cái nhìn tạo dựng thời đại của Nguyễn Huệ toả ra từ nhân cách văn hóa rất Việt Nam của ông đã tạo cho ông một sức hấp dẫn có thể lôi kéo những trí thức lớn đương thời đi theo phong trào Tây Sơn. Thành công lớn của Nguyễn Mộng Giác là đã trình bày thuyết phục và nhuần nhuyễn sức hấp dẫn văn hoá của người anh hùng nông dân Nguyễn Huệ, thách thức những định kiến lịch sử. Đó là một góc nhìn rất mới mẻ và táo bạo của nhà văn với nhân vật lịch sử độc đáo, phức tạp này.

Nội soi nhân cách văn hóa người anh hùng Nguyễn Huệ

Khi trình bày, tái hiện, lý giải các mối quan hệ trí thức nông dân trong lịch sử và giữa các nhân vật lịch sử, các nhà văn xưa nay thường nhìn các sự kiện qua lăng kính của thân phận người trí thức với những bi kịch, éo le và giằng xé của họ trong sự hợp tác với lãnh tụ nhân dân. Chẳng hạn, tiểu thuyết Vạn Xuân (Dix mille printemps) của nhà văn Pháp Yveline Feray và các tác phẩm văn học, sân khấu khác về Nguyễn Trãi đã khai thác bi kịch của người tri thức có công trong bối cảnh hậu chiến thời Lê.

Cách nhìn phổ biến trong các tác phẩm này là trình bày một đối trọng tri thức bạo chúa, văn hoá quyền lực, kẻ sĩ nông dân trong một ý nghĩa nào đó thì đối trọng này là một tương quan có ý nghĩa và thuyết phục. Nhưng dường như văn hoá Việt Nam có độ nhoè, độ dính kết, độ dung hoà giao thoa và cộng sinh giữa cái thái cực đã tạo ra những quan hệ phức tạp, đa tầng và đa sắc hơn giữa những thế lực và những quan điểm trong tiến trình lịch sử. Vì thế, cái nhìn phân tuyến lưỡng cực, đối trọng theo tinh thần duy lý cổ điển phương Tây và cách sử dụng lăng kính tri thức nhìn một xã hội nông dân, một trật tự nông dân sẽ có nguy cơ bất cập.

Nguyễn Mộng Giác có bản lĩnh sáng tạo tránh được công thức có tính định kiến và áp đặt này. Tác giả di chuyển người tri thức từ vị trí đứng ngoài bổ sung, đối trọng và đối lập với người nông dân vào bên trong cấu trúc nhân cách của người anh hùng Nguyễn Huệ, để nội soi người anh hùng này, khám phá những mâu thuẫn, những giằng xé, những gắn kết, những cộng sinh lai tạp trong quá trình lịch sử và tâm lý, tìm ra mã số văn hoá thống nhất trong nhân cách lãnh tụ khởi nghĩa nông dân. Và việc lồng trí thức vào nông dân, lồng con người thế tục vào con người huyền thoại, lồng con người tình nghĩa vào con người quyền lực, lồng cái nhìn nhân bản vào cái nhìn chính trị, lồng dã sử, huyền sử vào chính sử đó là cái cơ chế sáng tạo nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác trong Sông Côn mùa lũ.

Ta thấy rõ và cảm thông với sự song tồn, đồng tồn, tương hợp trong con người Nguyễn Huệ một học trò giỏi cuả Nho học và một người phê phán Nho học, một người tôn trọng đạo lý tình nghĩa và một lãnh tụ quyền biến thao lược dám làm những việc cần làm (như dấy binh đánh lại Nguyễn Nhạc anh mình), một người bạn, người tình, người học trò thuỷ chung, ân nghĩa và một bản lĩnh anh hùng dám đạp đổ cả triều đình để dành lấy giang sơn. Sự dung hoà, giao thoa, cộng sinh giữa các mặt đối lập trong nhân cách Nguyễn Huệ phản ánh biện chứng văn hoá hỗn dung của người Việt, làm nên tính cách Việt Nam của nhân vật Quang Trung trong bộ tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Mộng Giác, khiến nhân vật này mang sinh động và đầy tính nhân bản khác hẳn với Nguyễn Huệ trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái và cũng khác về cốt cách văn hoá với Pie đại đế trong tiểu thuyết Nga.

Trên cơ sở cấu trúc nhân cách văn hoá của Nguyễn Huệ, Nguyễn Mộng Giác đã gắn kết các tư liệu lịch sử với chiều sâu nhân bản trong đời sống tâm lý, thế tục của nhân vật được hư cấu một cách tỉ mỉ và sinh động. Ngay từ khi Nguyễn Huệ còn là cậu học trò, Nguyễn Mộng Giác đã để cho người bạn gái của ông là cô An cảm nhận được cái áp lực văn hoá trong nhân cách anh hùng bộc lộ qua từng câu nói đùa, từng ánh mắt giễu cợt và cử chỉ đời thường rất hồn nhiên vô tâm. Khi Nguyễn Huệ trở thành bậc vương tướng, Nguyễn Mộng Giác lại để cho cô An có lúc cảm nhận được sự gần gũi, ấm áp của một người bạn cũ thời thơ ấu và để cho Nguyễn Huệ sống trong trạng thái cô đơn khi quyết định tiến hành nội chiến với chính người anh của mình.

Những nhân cách văn hoá trong đời thường

Nguyên lý văn hoá lưỡng hợp, hỗn dung đặc trưng của dân tộc Việt dường như đã trở thành miếng đất màu mỡ cho tư duy nghệ thuật của người viết tiểu thuyết lịch sử, kết hợp nhuần nhuyễn chính sử, dã sử và huyền sử với tưởng tượng, hư cấu và khai thác chiều sâu tâm lý để sáng tạo ra những nhân vật nhiều chiều chập chờn giữa huyền thoại và giải huyền thoại, giữa đời thường và lịch sử, giữa sứ mệnh và tự do, giữa quyền lực và nhân tính. Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ là một nhân vật tiểu thyết như vậy, một nhân vật mang tính ám ảnh của văn hoá Việt Nam với tất cả những mâu thuẫn, giằng xé giữa con người nhân bản và con người chính trị như nhà lý luận Nguyễn Hữu Lê đã chỉ ra khi bàn về đặc tính đối thoại và giao tiếp của tư duy nghệ thuật.

Nhân vật cô An, người bạn gái của Nguyễn Huệ cũng là một tham số văn hóa gia tăng tính lưỡng hợp, hỗn dung của văn hoá Việt trong thế giới các nhân vật tiểu thuyết của Sông Côn mùa lũ. An dường như là hiện thân của những con người bé nhỏ bị bóng đè trong lịch sử, trong trường hợp cụ thể của An, cô bị bóng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ ám ảnh suốt cuộc đời. Nguyễn Huệ từng gần gũi An như một người yêu trong tâm tưởng, đã gieo vào An những kỷ niệm, những ấn tượng, đã giễu cợt những khao khát trần thế nhỏ bé của cô rồi lại cưu mang cô trong những bối rối của đời thường để cuối cùng cô vừa bị lịch sử cuốn mất người yêu có nhân cách lớn lao và cướp đi cả những hạnh phúc đời thường bé nhỏ.
Một thân phận chung chiêng giữa cái cao cả và cái tầm thường , một người phụ nữ Việt Nam mang nghịch lý của số phận thân nhân vô danh bị giằng xé giữa khát vọng lịch sử văn hoá lớn lao và thực tế thấp hèn, dở dang, tội nghiệp. Những kỷ niệm về Nguyễn Huệ lướt qua cuộc đời An như đưôi sao chổi quệt vào một hành tinh bé nhỏ làm đổ vỡ sâu sắc cuộc đời cô. Trong số phận An có chất chứa cả những điều éo le kỳ thú của số phận nhân dân, cả những đức hạnh, những guằng xé của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử.

Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Mộng Giác kết thúc bộ trường thiên tiểu thuyết bằng hình ảnh cô con gái An lần đầu hành kinh. Cái kết ấy gợi lại hình ảnh người thiếu nữ An xưa kia lúc mới gặp Nguyễn Huệ, trong ngày đầu hành kinh đã hốt hoảng lo âu trước nhịp sống thường tình của người phụ nữ. Và, ta không khỏi suy nghĩ, cái nhịp sống thường tình ấy thực ra từ lâu không còn thường tình nữa, đó là thời điểm đáng báo động mà người phụ nữ phải đơn côi đối diện và đối thoại cùng những biến động kỳ vĩ của lịch sử, những hốt hoảng âu lo ngây thơ kia chính là tiên cảm, là linh giác của đời người phụ nữ luôn luôn sợ hãi lo âu vì bị bóng của những nhân cách siêu việt do chính mình góp phần bé nhỏ tác thành đè nặng suốt đời. Liệu có một người anh hùng nào sẽ đến phủ bóng lên cuộc đời cô gái con An? Những thân phận bình thường được nhấn trở thành một tín hiệu nghệ thuật có sức ám ảnh nâng cảm nhận của người đọc lên tầm suy tư triết học và văn hoá.

Bên cạnh An, những con người bé nhỏ bình thường khác trong Sông Côn mùa lũ như giáo Hiến, Lãng, Chinh, Thọ Hương... cũng có những cái riêng để đi vào lịch sử, tham dự vào nhân cách văn hoá của Nguyễn Huệ ở những mức độ khác nhau. Trong tương quan lịch sử, họ là những “mẫu số chung tầm thường”, một hai trong muôn ngàn, nhưng trong tương quan văn hoá là thế sự, họ cũng in dấu ấn vào nhân cách anh hùng trong một chuỗi những sự kiện, hành vi tưởng như bé nhỏ, thường tình vô nghĩa và bằng cách đó họ góp phần bộc lộ và khám phá những chiều kích nhân bản khác nhau trong nhân cách dân tộc và nhân cách anh hùng dân tộc.

Khác với những cây bút tiểu thuyết thường khai thác hành vi lịch sử của quần chúng như là những lực lượng cơ bắp, Nguyễn Mộng Giác xây dựng những con người bé nhỏ như những nhân cách văn hoá trong đời thường góp phần đan dệt và phản chiếu nhân cách văn hoá của người anh hùng áo vải Quang Trung. Họ đều là những nhân vật nhạy cảm văn hoá, sống thường trực trong tư cách nhân chứng văn hoá trước dòng chảy lạnh lùng và khốc liệt của lịch sử để đón nhận và lưu giữ những ấn tượng sâu sắc từ mỗi sự kiện, mỗi hành vi, mỗi xao động nhỏ trong dòng chảy ào ạt tàn nhẫn ấy.

Trước khi là nạn nhân của sự quên lãng, vô tâm và phản bội thường thấy trong lch sử, những con người bé nhỏ này ngày ngày là nạn nhân của nhân tính bén nhạy trong mình, để rồi như An và Lãng bị choáng váng ám ảnh mãi bởi một vụ nghĩa quân hành quyết một người vô tội nhằm trấn an người Thượng sau vụ tranh chấp muối, hay như ông giáo Hiến nổi giận đánh con trai là Chinh khi thấy anh xách xâu tai người về như một dấu hiệu của thái độ say sưa bạo lực...

Lịch sử được tái hiện qua biết bao sự kiện hành vi thế sự, mỗi sự kiện nhỏ lại được nhà văn khai thác sâu những vang dội của nó vào thế giới nhân tính, trở thành những tín hiệu tâm linh, văn hóa. Sự kiện lịch sử chỉ như một thứ thẻ căn cước để Nguyễn Mộng Giác đi vào thế giới nhân tính thâm u, khuất khúc, thăm thẳm trong từng nhân vật mà thăm dò những ấn tượng tâm lý, những xáo động nhân bản, những nhức nhối nhân văn, những khắc khoải văn hoá vừa dữ dội vừa tinh tế. Và cái tinh thần văn hoá nhất quán trong những nhân vật này là tinh thần văn hoá Việt nam đầy nhân bản, đầy mặc cảm thân phận, nặng tình, trọng nghĩa, ân oán rạch ròi và ngôn thứ phân minh.

Cái nhìn xuyên suốt bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ là cái nhìn văn hoá, là sự khám phá, lý giải kết nối chuỗi nhân cách văn hoá từ thường nhân đến vĩ nhân làm nên một dòng chảy văn hoá tâm linh nhất quán qua từng trang sách. Dòng chảy văn hóa đó là sự hoà quyện của logic lịch sử, lôgic đời sống và lôgic nghệ thuật trong dung môi văn hoá Việt Nam đầy tính nhân bản, lưỡng hợp hỗn dung. Đó chính là mã số của sức mạnh Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam.

Sông Côn mùa lũ được sáng tác ở Việt Nam từ năm 1977 đến 1981, xuất bản lần đầu ở Hoa Kỳ năm 1990. Có lẽ cách nhìn nghệ thuật vừa táo bạo, trí tuệ, vừa sâu sắc và nhân bản của tác giả Nguyễn Mộng Giác - một cách nhìn tôn vinh văn hoá Việt Nam, gợi ra những vấn đề day dứt, nhức nhối về quan hệ quần chúng và lãnh tụ, cá nhân và lịch sử đã khiến cho bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ được độc giả trong nước đón nhận trân trọng và nồng nhiệt. Bài viết này không có tham vọng giới thiệu toàn diện bộ sách đồ sộ công phu này mà chỉ gợi ý một mã số, một lối vào tác phẩm để bạn đọc tham khảo và tự mình thẩm định.

  ĐỖ MINH TUẤN
Nguồn: VHNA


Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018

SƠN NAM VỚI ĐÔI MẮT NHÀ VĂN

Ông Sơn Nam tính rất lãng mạn, biết đâu đây là mối tình già của ông lập tức tôi nghĩ ngay cái tàn cây trứng cá, người đàn bà giá chồng bán bánh tằm kia là địa chỉ  kia, thế nào ông ghé qua nhiều lần nữa…
Nhà văn Sơn Nam

Cuộc sống với nhiều hình ảnh nhiều chi tiết người cần phải tập quan sát để đưa ra kết luận chính xác không sai. Nhất là cái nhìn sống lại với thời gian hai chiều như ít người có được cái nhìn nhạy bén này.

Truyện Miếng da lừa của H. Banzăc, nhân vật Zađich với óc phán đoán như thần đã làm cho bạn đọc phải ngẩn ngơ. Nhà vua mất một con ngựa sai lính đi tìm. Zađich không thấy nhưng lại biết con ngựa ấy thọt chân và mất một cái răng. Đúng là kẻ gian, lính dẫn Zađich lên gặp nhà vua. Zađich thong thả nói mình buổi sáng ra đường gặp dấu chân ngựa, ba dấu thì sâu, một dấu nông. Rõ ràng đó là con ngựa thọt chân. Nó vừa đi vừa ăn theo ven đường đám cỏ so le đọt dài đọt ngắn đúng là con ngựa sún răng. Nhà vua và cả triều đình phải phục lăn, để thử thêm tài nghệ của Zađich, vua sai cung nữ bưng ra một cái tráp đậy nắp hỏi đó là món gì đựng bên trong. Zađich cầm cái tráp lên rồi để xuống trả lời nhanh lẹ là trái lựu. Ai nấy tròn xoe đôi mắt hỏi thêm lựu chín hay sống. Zađich trả lời lựu già gần chín rồi giải nghĩa. Khi cầm tráp lên để hơi nghiêng vật lăn theo có nghĩa là nó tròn và tiếng lăn cho biết đó là trái cây chớ không phải là vật nào khác. Xung quanh cung điện trồng rất nhiều lựu nên đoán là trái lựu. Mùa thu lựu chín, bây giờ mới nửa mùa hạ thì đó là trái lựu già. Chắc là Banzăc đã từng gặp ở ngoài đời một người nhạy bén như vậy nên ông dựa theo hư cấu ra Zađích. Bây giờ tôi xin kể lại chuyện của nhà văn Sơn Nam trí phán đoán không thua gì Zađich.

Vào những năm của thập niên 80 thế kỷ trước, Tiền Giang có cuộc hội thảo văn học. Buổi trưa tôi tranh thủ đi dạo phố xá Mỹ Tho tình cờ gặp ông Sơn Nam cũng đang lang thang. Thật là thú vị được đi với ông, vừa đi ông vừa nói được nghe sơ qua về lịch sử của thành phố Mỹ Tho. Đến một dãy phố mở cửa mua bán nhưng riêng có một căn phố cũ kỹ cửa sắt lại khép để he hé. Ông đứng lại nhìn giây lát rồi nói ngày xưa đây là tiệm cầm đồ. Làm sao chú biết, bộ chú từng đi ngang qua đây. Tôi ngạc nhiên khi ông trả lời mới lần đầu. Và ông như muốn dạy cho anh bạn trẻ muốn biết văn hay hãy tập quan sát. Sơn Nam kêu tôi nhìn cho kỹ ra thong thả kết luận. Trước hết trong nhà ở treo ba cái đồng hồ quả lắc. Hai bộ bàn ghế xưa bằng gỗ quý nhưng bàn đi theo bàn ghế đi theo ghế không trùng bộ. Trên vách còn treo ấy tấm liển cẩn ốc xa cừ. Chứng tỏ nhà này là tay sưu tầm đồ cổ nhưng vì thấy trong tủ có ít chén kiểu và cây cân tiểu ly, chứng tỏ ngày xưa đây là tiệm cầm đồ đủ các món, cầm cả vàng. Những gì nhìn thấy trong nhà là các món người không chuộc còn để lại. Tôi chưa vội tin, tình cờ một người từ trong nhà đi ra. Hỏi thăm quả nhiên, thời Mỹ Tho còn xe lửa chạy lên Sài Gòn, đây là tiệm cầm đồ của ông Nội chủ nhà, bị ăn cướp đánh rồi nghỉ luôn đến nay. Qua một con đường khác, đến một căn phố cũng xưa trước cửa có cây trứng cá xòe tán mát rượi, bên dưới có bày hai cái bàn bán bánh tằm. Người đàn bà đứng tuổi nhưng da mặt trắng mịn, quần áo tươm tất sạch sẽ, bàn ghế chén đũa cũng sạch, có khăn trắng đậy lên thau bánh ban đầu tôi chỉ nhận xét sơ qua như vậy riêng Sơn Nam như là một phát hiện:

- Nước cốt dừa bồng con như lâu quá mới gặp đó chú mầy. Thường thường dừa mắc người ta pha thêm bột bán mới có lời. Lâu lắm mới gặp được nước cốt dừa bồng con đó chú mầy.

Ông Sơn Nam kêu lên đi qua rồi đứng lại, dường như mọi thứ không qua được đôi mắt nhận xét tin tường của ông. Chị nầy điềm đạm ung dung chắc chắn không phải dân mua bán. Lớn tuổi con cái đi vắng không chuyện gì làm bày ra mua bán cho vui. Sao chú biết. Tôi hỏi vặn. Chú mày có nhìn thấy cái vòng cẩm thạch đeo trên tay không, đồ xưa đó. Nhà nghèo có nó người ta bán để làm vốn chớ không ai đeo. Chị nầy lấy mua bán  cho vui nên bánh tằm này ngon. Ông kết luận chắc nịch rồi nắm tay tôi trở lại. Quả nhiên bánh tằm se bột rất mềm, xíu mại, bì trộn thịt nhiều, nước cốt dừa bồng con rất ngon, giá lại rất là rẻ. Cô bán như vậy sao có lời. Sơn Nam khơi chuyện. Người đàn bà cũng vui vẻ cho biết mình ở không chẳng biết làm gì nên bày ra mua bán cho vui chớ lời lớm gì. Rồi không ai đánh chị tự khai, chồng của mình là thầu khoán chết đã lâu, con cái làm việc trên Sài Gòn. Nhà có miếng vườn ở quê, dừa khô ăn không hết nên bày ra buổi bán bành tằm, buổi khác bán bánh ích trần, bánh chuối cho vui…

Tới đây coi như hết chuyện của nhà văn Sơn Nam với óc phán đoán nhạy bén không thua gì Zađich. Xin được nói thêm nhà văn và thiếu phụ bán bánh tằm se bỗng dưng như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại nhau. Tôi ngồi ở giữa nghe rất là thích thú hai người trao đổi đủ thứ chuyện rất là tâm đầu ý hiệp, từ chuyện các món bánh trái cổ truyền như bánh thuẩn, bánh bò bà lai đã biến mất. Đến chuyện ăn mặc hát hò của đất Mỹ Tho xưa kia. Lúc ra về nhà văn Sơn Nam nháy nháy đôi mắt. Ngày mai chú mày về, chớ tao ở lại. Tôi tưởng là ông nói đùa nhưng sau đó biết được ông đã ở lại Tiền Giang thêm hai ngày. Ông Sơn Nam tính rất lãng mạn, biết đâu đây là mối tình già của ông lập tức tôi nghĩ ngay cái tàn cây trứng cá, người đàn bà giá chồng bán bánh tằm kia là địa chỉ  kia, thế nào ông ghé qua nhiều lần nữa.

Tôi không biết và cũng không dám tò mò hỏi chỉ làm thầy bói đoán mò nhưng tôi lại nảy ra một cái truyện ngắn nhan đề “Duyện nợ bánh tằm se hoặc là nhà văn và cô gái bán bánh”. Viết xong đọc đi đọc lại thấy truyện thiếu muối không được hồn nhiên, lạc quan nồng nàn yêu đời như tính cách của Sơn Nam nên đành xếp để đó… kể ra truyện này trước nghe chơi.

 NGÔ KHẮC TÀI
Nguồn: VĂN NGHỆ 2017

Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2018

LỐI ĐI TÂM LINH TRONG THƠ HOÀNG CẦM

Chỉ có Trường thơ Loạn và nhóm Xuân thu nhã tập trước năm 1945 là hai thi phái hiện đại duy nhất ở Việt Nam có những quan tâm thật sự về tâm linh trong thơ, tâm linh theo nghĩa là một thứ “linh khí” của sáng tạo. Tâm linh trong thơ ca của người Việt vẫn còn là mảnh đất tiếp tục mới.
Nhà thơ Hoàng Cầm

Tâm linh và văn học vốn được xem là một mối quan hệ phức tạp, đa nghĩa, “dễ phiền toái”, “gây hệ lụy” nên cả người viết lẫn người đọc đều không có khuynh hướng mổ xẻ, giãi bày nó làm gì. Hơn nữa, “tâm linh” (xét như một tính chất của tác phẩm văn học) là một trong số những từ ngữ khó xác định nội hàm nhất. Đức tin, hồn ma, mộng mị, thần thánh, ảo giác huyền hồ, ân oán trả đền, kiếp trước kiếp sau, tiên cảm tiên tri,… có phải tất cả đều là tâm linh, là cái mà lý trí thông thường khó chấp nhận? Sẽ giải thích thế nào trước một thực tế: Kinh Thánh Thiên Chúa giáo là suối nguồn vô tận cho những đỉnh cao văn học châu Âu, Kinh Thi, Đạo đức Kinh, Nam hoa Kinh của Trung Hoa đã làm nên biết bao tượng đài thơ ca châu Á, Kinh Veda của Ấn Độ, hệ thống Kinh điển Phật giáo Đại thừa Đông Á đã “hiến tế” cho nhân loại những nghệ sĩ thượng thặng. Trong sâu xa, cảm hứng “nói bằng sự kính tin” và “nói với đấng kính tin” có lẽ là cội nguồn miên mật của ngôn ngữ tôn giáo và cuộc sáng tạo bất tận của văn chương.

Bởi vậy, những thiên tài văn chương qua nhiều thế kỷ của nhân loại thường được ca tụng là “nhà tiên tri”, “kẻ thấu thị”, “người có con mắt trông thấu sáu cõi”, “tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”… Tâm linh là những phần suy tư sâu sắc nhất được chưng cất mãnh liệt của con người về những cảm nghiệm sống, vượt qua nhiều giới hạn không gian và thời gian. Tâm linh là một giá trị của văn học.

Để có thể nói được những điều sâu kín mà phổ quát nhất, tác phẩm chắc chắn cần đến một bệ đỡ là những suy tư tâm linh mà sau đó sẽ biến thành quả ngọt sáng tạo. Không thể có những tiếng nói đa thanh đa nghĩa đến cốt tủy nếu tác giả của những tiếng nói ấy lại là người sơ sài về “khả năng tâm linh”.

Đương nhiên, cũng không có nguyên tắc nào để khẳng định chỉ có văn học tâm linh mới là đáng giá. Nhưng tâm linh trong văn học và văn học tâm linh là hai chuyện khác nhau, và cũng thật khó tin rằng những tác phẩm đã bỏ mặc tiếng gọi của tâm linh sâu xa mà vẫn có thể đạt tới những giá trị lớn.

Honoré de Balzac, bậc thầy chủ nghĩa hiện thực châu Âu, cũng là tác giả của “Miếng da lừa” huyền hoặc – một phúng dụ cay đắng về giá trị con người trong thử thách của xã hội đồng tiền, một huyền thoại giàu ý nghĩa tâm linh bổ sung vào cái nền hiện thực tàn bạo và đáng chán.

Trở lại câu chuyện của thơ ca Việt, có quá nhiều lý do khách quan và chủ quan để nói rằng: “tâm linh” là một chủ đề nhạy cảm không thua kém bất kỳ sự nhạy cảm chính trị, tôn giáo nào. Nó từng được ủ men trong Trường thơ Loạn, bởi chủ soái Hàn Mặc Tử vốn cũng là người yêu mến và am hiểu Thiên Chúa giáo, người đã rọi một thứ ánh sáng khác biệt xuống khoái cảm nghệ thuật của độc giả đương thời, một thứ ánh sáng ẩn mật, đau đớn và giàu ý nghĩa thần học. Nhưng Trường thơ Loạn cũng sớm kết thúc sứ mệnh tâm linh ngắn ngủi cùng với sự ra đi của Hàn. Đoàn Phú Tứ của Xuân thu nhã tập viết: “Còn những bạn nào nữa đây, ở những bến trời xa lạ, cùng chúng ta “giũ áo lên Đền”, trong một điệu đàn thanh khí”[1]. Lần này, ở quãng cuối của trào lưu Thơ mới, một tuyên ngôn đậm đặc yếu tính tâm linh lại xuất hiện. Nó không nhận mình là “điên”, là “loạn” mà nhận là “thanh khí”, là “nhã”. Thơ trở thành “Thi Đền”. Sang trọng biết bao! Nhưng rồi nhóm Xuân thu nhã tập cũng biến mất cùng tiếng chuông lịch sử năm 1945, “cáo chung” thời đại cũ. Thơ ca kháng chiến cuồn cuộn đưa con người vào cơn lốc chiến tranh, khó có chỗ cho tâm linh trú ngụ.

Từ bấy đến nay, câu chuyện thơ ca và tâm linh vẫn còn là mối dở dang. May thay, có một người gợi cho tôi niềm tin mạnh mẽ về một thứ văn nghệ “biết đến tâm linh” và “biết đến cái đẹp của tâm linh”. Người ấy là nhà thơ Hoàng Cầm.

Một sớm du xuân về Thuận Thành, đứng ở chùa Dâu, rồi ngồi giữa đồng cạnh chùa Bút Tháp, tôi thấy hồn thơ Hoàng Cầm trở về không dứt. Quả không phải chỉ Hoàng Cầm “về Kinh Bắc”. Sẽ còn nhiều độc giả tiếp tục cuộc trở về ấy, không phải chỉ vì lời dụ gọi của những làn điệu quan họ mà hẳn còn vì họ muốn nhìn thấy muôn nghìn Kinh Bắc khác nữa, qua người dẫn đường kỳ lạ, người kể chuyện độc nhất vô nhị, người được Kinh Bắc sinh ra và sinh ra “Kinh Bắc”: Hoàng Cầm.

Nếu đem đặt chất thôn quê bình dị của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính với “hồn quê Việt” của Hoàng Cầm thì chẳng có gì sai, nhưng cách ấy không khéo rất dễ làm mờ tan ít nhiều phong vị ám ảnh từ âm ba cây đàn lia mà chàng hoàng tử bé xứ Bắc Ninh xưa gẩy lên mê hoặc. Vẫn cảnh quang và dải yếm quê mùa của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng, song, cốt cách Hoàng Cầm vẫn không thể chia sẻ với giọng quê truyền thống. Ông là một đối thoại rất khác biệt với truyền thống.

1. Cảm hứng hồi tưởng - tâm linh hóa ký ức

Thơ Hoàng Cầm là tiếng nói của hồi tưởng. Nhà thơ Hoàng Hưng có một bài viết lấy nhan đề Hoàng Cầm - Một đời nhớ tiếc, một đời “níu xuân xanh”. Nỗi nhớ tiếc trong thơ Hoàng Cầm nhiều đến mức tạo nên “điệu nhớ” dai dẳng, và cũng giúp ta cắt nghĩa được nhiều nỗi đa đoan trong nội tâm phong phú, u huyền của thi sĩ. Nhớ và tiếc triền miên – đó là điệu thơ của người không bao giờ chịu già nua trong cảm xúc và ước mong.

Nếu anh còn trẻ như năm ấy
Quyết đón em về sống với anh
Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh

Nhưng thuyền em buộc sai duyên kiếp
Anh lụy đời quên bến khói sương
Năm tháng năm dây chùng phím nguyệt
Bao giờ em hết nợ Tầm Dương (…) [2]

Bài thơ được viết năm 1941. Câu chuyện một mối tình buồn ở những bước đầu của sự nghiệp thơ ca đã sớm ghi dấu một khả năng dẫn dắt trường từ ngữ đến gần cửa ngõ tâm linh, qua cách nói: khoảng chiều buồn phơ phất/ níu xuân xanh/ sai duyên kiếp/ bến khói sương/ nợ Tầm Dương.

Một vài bài thơ trước 1954 của Hoàng Cầm, dù đi giữa những quan tâm lớn lao về cuộc kháng chiến chống Pháp, vẫn hé lộ một hướng tư duy, một hứng thú viết, một thiên bẩm về sự kiến tạo chiều sâu tâm linh cho thơ, ví dụ như những câu: cõi đời nghiêng ngửa giấc u minh (Lại gặp), ngọn gió điên rồ trên đất lạ/ là mắt em hay thần mộng anh linh/ nước sâu gạn đục, ánh giăng nhiệm màu (Sám hối), từ trên nguồn thơ dại/ em chải tóc rừng xanh (Tiếng hát sông Lô).

Bài thơ Bên kia sông Đuống (4-1948) của Hoàng Cầm là một trong những hồi tưởng lớn và thiêng liêng nhất của Hoàng Cầm. Điều lạ là cái cách nói của bài thơ này, nỗi nhớ của nó, không có nhiều nét chung với bức tranh thơ ca kháng chiến hồi ấy (thậm chí khó mà được lòng cái “đại chúng” mơ hồ và quyết liệt của một thời) nhưng nó vẫn được yêu mến, được truyền tụng, được “chính thức hóa” (từng được đưa vào chương trình sách giáo khoa trung học phổ thông, trở thành đề thi đại học nhiều năm). Được như thế có phải vì sức thuyết phục của một dòng chảy tâm thức thơ đạt tới mức “hoạt hóa cõi siêu thức”, đi thẳng vào tâm linh người đọc, bất chấp mọi “húy kị” chăng?

Chất giọng thanh tao pha lẫn nỗi mê sảng và cách đặc tả sang trọng đầy sức vẫy gọi đâu có dễ hiểu dễ cảm.

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Thần thái Bên kia sông Đuống có lẽ nằm ở những tia sáng ẩn khuất của tâm linh hiện ra trong bài thơ. Trong nỗi nhớ tiếc cuồng dại và thắm thiết, nhà thơ đã mở hoàn toàn cánh cửa tâm linh cho ký ức được trở về trong chiếc bóng khác. Nó không còn là cảm xúc, tâm lý. Nó vượt qua kỷ niệm để trở thành tưởng niệm, vượt qua hình ảnh để trở thành ám ảnh, vượt qua không gian địa lý để trở thành không gian tâm cảm. Ký ức trở thành tâm linh là một trong nhiều sở trường của tư duy nghệ thuật Hoàng Cầm.

Nỗi nhớ chỉ dừng ở cảm xúc cũng có thể sản sinh ra cái đẹp. Nhưng nỗi nhớ đã thành tâm linh thì chính nó là cái đẹp. Quang Dũng từng có câu thơ “thần sầu”:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi

(Tây Tiến)

Đâu còn là nhớ Tây Tiến, đâu còn là chuyện một chiến sĩ nhớ một vùng đất, một nhiệm vụ, một thời. Đó là sự sống nhớ cái chết, thần hứng nhớ địa linh.

Nỗi nhớ có màu sắc tâm linh đã biến “tấm the đen” của thi sĩ Hoàng Cầm thành một dải lụa kì bí mở ra một trời quá khứ cố hương. Cụm từ “thấp thoáng mộng” không chỉ hô ứng với “tấm the đen” phía trước mà còn gọi được cả những thứ “linh phù” phía sau: Thiên Thai, Bút Tháp, áo, ai, chuông chùa, ở đâu. Nếu quả có một thế giới khác thực sự đã hiện ra sau tấm the đen mờ ảo kia thì tôi tin hồn vía đoạn thơ đã nhập cả vào không gian Thuận Thành xứ Dâu Keo. Đó không phải là tâm linh thì biết gọi là gì?

Hoàng Cầm kể lại cái thế giới sống trong hồi ức ấy: Con cò trắng bay vùn vụt/ Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu…; Lá đa lác đác trước lều/ vài ba vết máu loang chiều mùa đông/ Đêm buông xuống dòng sông Đuống / Con là ai – con ở đâu về; Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng/ ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể/ những chuyện muôn đời không nói năng; Em đi trảy hội non sông/ cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh. “Viết như đang chiêm bao” thế này, “nói như tiếng mơ hồ” thế này, về sau, trong bài Đi tìm ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm (tìm hiểu tập Về Kinh Bắc), Đỗ Lai Thúy đã cắt nghĩa thành thủ pháp của “giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những hình ảnh rời rạc và rất nhiều khoảng trắng, các dấu lặng… Tất cả trôi đi trong một nhịp điệu thôi miên” và thế giới thơ ông là “một thực tại siêu thực trong vô thức”. Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, cái “khoảng trắng”, “dấu lặng” được nhắc đến đó chính là lối đi của một thứ tâm linh nhạy bén trong bản năng thơ của Hoàng Cầm. Một nhà thơ dân dã, bình dị, đầy chật những quan niệm Nho gia buổi giao thời như Nguyễn Đình Chiểu cũng có lúc buột ra một câu thơ sâu thẳm: “Ba nghìn thế giới ta là vô danh”. Thơ ca gắn với tâm linh như là bản mệnh. Một nhà thơ trong một đời thơ cũng ít nhiều “buột ra” những câu thơ đi vào vĩnh cửu bởi sự hội tụ tâm linh đạt tới mức lấp lánh. Nhưng Hoàng Cầm không thuộc kiểu thi sĩ đôi khi buột ra hiếm hoi theo cách ấy. Ông tư duy trên tâm linh. Bản năng thi sĩ của ông nằm ở đó. Thành tựu của thơ ông chảy từ nguồn đó.

Những mảng hồi ức hóa tâm linh còn len lỏi tinh tế trong những bài thơ cắm sâu vào lòng người đọc như Lá diêu bông, Chùa Hương, Cây tam cúc, Cỏ Bồng Thi, Hội yếm bay… Đó là những: Buồn pha lê thiên không nức nở/ mù xanh thủng đáy chúa tiên rơi; Em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ Diêu Bông hời…; ù ù gió thổi/ e vọng ai đâu mà hóa đá; thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi/ Em đứng nhìn theo Em gọi đôi… Đã có nhiều bút mực của công chúng yêu thơ cho thế giới “siêu nghiệm” của Hoàng Cầm. Điều làm người đọc phải suy tư nhiều chính là ở khả năng tâm linh hóa những biến cố tinh thần, tình cảm ở nhà thơ. Có phải vì khả năng ấy mà những câu chuyện tình dị thường, diễm lệ, buồn đau riêng của ông cũng trở thành “điển cố” cho chính ông, ở lại trong lòng người đọc một cách lâu bền bởi những ngôn từ “tha tâm thông” (thấu lòng người) một cách tự nhiên.

2. Lằn ranh nhục cảm và tâm linh

Niềm sung sướng không cưỡng được của người đọc khi nhẩn nha những câu thơ “đầm đìa sắc dục” của Hoàng Cầm xuất phát từ chỗ nó vẫn không ngừng dính líu với vẻ đẹp nguyên sơ của tinh thần. Đó là một thứ khoái cảm chính đáng và hiếm hoi.

Thuở ấy Chị chưa về thơ Anh
Áo tơ dính chặt bó khuôn hình
Đến khi xé lụa bừng da thịt
Ngửa mặt phù du khép gió xanh



Rung suốt dây si nhịp quá mê
Nghe nghìn thế giới trượt ghềnh V
Lung liêng hồn liệng quỳ khe núi
Van suối trần tâm khép nép về

(Dâng thơ)

Dòng thơ “dềnh dàng” giữa cảm thức thánh thiện và cảm giác nhục dục được tạo thành từ nữ sĩ thiên tài Hồ Xuân Hương. Dòng thơ ấy được nối tiếp bằng Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng và Hoàng Cầm. Ở mỗi thi sĩ, nhục cảm và tâm linh chi phối lẫn nhau bằng một cấu trúc khác biệt. Nếu thơ Hồ Xuân Hương được cảm nhận từ phía “cổ mẫu”, từ những “hoài niệm phồn thực”[3] thì thơ Bích Khê là tiếng nói tân kỳ về cái đẹp tĩnh tại của xác thân. Phong cách tượng trưng và yếu tố tương giao cảm giác ở nhà thơ này chiếm ưu thế hơn ấn tượng tâm linh. Hàn Mặc Tử thì gắn triết lý thần học về thánh giá với nỗi đau riêng, chuyển hóa cảm xúc tình dục thành những ảo giác tâm linh về sự chết. Bùi Giáng với “tài năng rồ dại” đã trộn lẫn hoàn toàn phần tâm linh và phần nhục cảm đến độ tự nhiên, thuần thục khó ngờ, với thú chơi chữ và lối cấu tứ không thể lặp lại ở bất kỳ một cây bút nào khác. Tâm linh và nhục cảm không quí ở chủ đề. Nó quí vì sự thử thách. Bởi hầu hết những tài năng thiên phú về văn chương đều ít nhiều để lại tầm vóc họ qua những cái bẫy nghiệt của đẳng cấp chữ nghĩa, nơi cái thanh và cái tục giải mã được cho nhau.

Cách riêng của Hoàng Cầm là trút hết cái nhấn nhá tài hoa của xứ sở “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” vào dáng vẻ nhục cảm. Trong ngòi bút của nhà thơ, hồn đất hồn người hồn quê hồn nước nhập hết làm một, tràn vào mỗi hình tượng, cảm xúc, biến tất cả những trạng thái tính giao thành những cuộc cung hiến nồng nhiệt ở cõi thanh cao. Trong tâm điểm cung hiến, Hoàng Cầm đã “thiên thai hóa” mọi niềm vui của cuộc đời hạn hẹp, kéo nó thành vô hạn và cao sang: sau “xé lụa bừng da thịt” thì sẽ là “ngửa mặt”, “khép gió xanh”, “nghìn thế giới”, “trượt ghềnh V”, “hồn liệng”, “quỳ khe núi”, “van”, “suối trần”, “khép”. Những từ ngữ này càng mang vẻ thiêng liêng bao nhiêu thì càng “lồ lộ” một cuộc “mây mưa” bấy nhiêu. Đó là bức tranh cuộn vẽ thiên nhiên đang cơn lạc thú, một thiên nhiên có thần thức của con người.

Nếu lọc ra những từ ngữ “kì dị” của thi sĩ xứ Kinh Bắc, người ta càng sửng sốt, ví dụ từ “chắp” trong câu: Hai người chợt tiếc mùa xuân/ Vội chắp lại đêm xuân thứ nhất/ Nhờ đó tôi ra đời (Tôi người làng quan họ); “sấp ngửa”, “ổ rơm thơm” trong câu: Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa/ Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì (Cây tam cúc); “tính”, “nhẵn nhụi”, “tròn lăn” trong câu: Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc/ Mấy ngón tay tính nước vào ra/ Vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà/ Tròn lăn cung cấm trẻ con chơi (Hội đền Tám vua triều Lý); “chảy”, “nhún” trong câu:  Luồn tay ôm say/ Giấc bay lay đỉnh núi/ Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành/ Đùi chảy búp dài thon nhún vội/ Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh (Thi đánh đu). Thật chẳng thua gì bà chúa thơ Nôm ngày trước, những là “giọt nước hữu tình”, “con thuyền vô trạo”, “nhảy ngựa”, “vén phứa”, “đầy phè”…

Thơ Hoàng Cầm ở những khúc đoạn “nhạy cảm” thường không tinh nghịch đến cùng. Điều ấy giữ cho thơ ông một màu sắc ẩn nhã dù chẳng xa niềm chăn gối. Tâm linh đã làm công việc đó, xoay xở cho những thú vui nghìn đời kia của loài người trở thành những lời khấn bằng thể xác. Mỗi cử động, mỗi xúc động là một khấn nguyện trước hư vô. Bởi vậy mới có những câu thơ:

Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm

(Đêm Mộc)

Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
Gió ra hồng da trinh nữ
Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân
Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm

(Đêm Thủy)

Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
Không giờ không
Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng

(Hội chen Nga Hoàng)

Hỗn mang, địa đàng, thăm thẳm, “không”, đó là những tên gọi khác của cuộc giao hòa cùng tận.

Đỗ Lai Thúy bình: “Mưa là một phiếm thể, dễ thay hình đổi dạng (mưa ngâu, mưa xuân, đi lối mưa, thềm hong mưa, lun phun mưa, mưa hoa nhài, mưa nằm, mưa ngồi, ao mưa nhòe nắng, mắt nhìn như mưa trắng…). Mưa là biểu tượng của tinh dịch Trời ban xuống cho Đất. Mưa trong thơ Hoàng Cầm, bởi vậy, mang màu sắc tính dục đậm”[4]. Nền tảng mỹ học và triết học phương Tây cho phép người đọc thấm thía đến mức ấy những câu thơ mơ sảng của Hoàng Cầm. Đọc lại mấy Mưa Thuận Thành mới thấy quả đúng thế:

Nhớ mưa Thuận Thành
long lanh mắt ướt
là mưa ái phi
tơ tằm óng chuốt
Ngón tay trắng nuột
nâng bồng Thiên Thai
 (…)

Phủ Chúa mưa lơi
Cung Vua mưa chơi
lên ngôi hoàng hậu
… Lách qua cửa hẹp
Mưa càng chứa chan
mưa nằm lẳng lặng
hỏi gì xin thưa
nhớ lụa mưa lùa
sồi non yếm tơ
……………….
Thuận Thành đang mưa…
…………………

(Mưa Thuận Thành)

Có cái gì đó như là tất yếu khi đất chùa Dâu sinh ra thi sĩ Hoàng Cầm. Từ đầu công nguyên, Bắc Ninh đã là một xứ Phật, được biết đến với cái tên “trung tâm Phật giáo Luy Lâu”. Mọi câu chuyện kỳ diệu của huyền sử, lịch sử, không khí thiền đạo, tinh túy văn nghệ, các bậc tầng văn hóa cổ truyền… đều xoay xung quanh mảnh đất này. Bởi vậy, viết về Kinh Bắc mà thiếu tâm linh thì làm cách nào để người ta cảm nhận được Kinh Bắc? Khí chất tâm linh, khả năng “siêu cảm” là vốn trời cho ở Hoàng Cầm. Tâm linh ở đây không chỉ là câu chuyện của tôn giáo, tín ngưỡng. Tâm linh gắn với một nền tảng “vô thức tập thể” mà những nghệ sĩ lớn đời nào cũng tìm ra con đường để “hoạt hóa”. Hoàng Cầm được sinh ra và làm thơ để làm sống dậy hình hài Kinh Bắc trong tất cả những thăng trầm của nó. Cái dáng nằm “nghiêng nghiêng” của sông Đuống là kỳ quan tinh thần của nhà thơ để lại cho đời hơn là một phát hiện mang tính địa lý. Chiếc yếm bay không có mấy chiều sâu nếu nó không được khắc vào trong những câu thơ “nguồn sống tuôn thơm nhựa ứa đầy/ một chiều hoảng sợ mấy chiều say”; “Hương ngát em lồng kín cõi – anh/ Yếm đào trút lại phía vô linh/ đung đưa gác lửng nghênh xuân ấy/ đôi núm hồng em nở hết mình” (Hội yếm bay).

Không khí tâm linh trong thơ Hoàng Cầm mang hơi hướng “cứu chuộc” những cái bị cho là thô xấu, tội lỗi. “Dâng hiến” và “cứu chuộc” là bản chất sâu xa của mọi niềm tin tôn giáo. Đó là những khái niệm không còn là khái niệm. Dâng hiến và yêu thương là một. Làm cho đẹp cũng là cứu chuộc. Hình ảnh nhục cảm mà gợi nên những sự đẹp đẽ thì chính nó đã cứu chuộc cho những ý nghĩ thấp tối về nó. Bài Cầu Phật của Hoàng Cầm chứng tỏ kiểu thơ tâm linh ấy:

Ngủ quỳ chân Phật thức thâu đêm
Nghìn mắt không soi tỏ nỗi niềm
Mảnh lá run xanh khe suối nép
Nghìn tay sao nỡ thắt y xiêm

Chế Lan Viên, một đối chọi về phong cách với Hoàng Cầm, từng viết: “Phật trăm tay anh giấu mình vào cánh tay thứ mấy/ Nhiều tay chi thêm bối rối trước đời”. Lời than vãn thông minh này là một triết lý nho nhỏ nhưng rất sâu, gợi ra hình ảnh một con người suy tưởng. Còn vị Bồ Tát Chuẩn đề của Hoàng Cầm lại hiện lên theo cách khác, không phải trong hình dung của lý trí bảo ban, mà như một lời thốt, lời van đa đoan: “sao nỡ thắt y xiêm”; điều đó có nghĩa rằng: những cánh tay cứu chuộc kia có thể nào đóng lại vĩnh viễn những khát khao cùng tận thể xác của con người? khép lại mọi nhục dục của con người? Có thể nào như thế không? …

Xứ Phật nghìn năm vẫn làm rơi ra những câu thơ táo bạo và “liều lĩnh” bực ấy. Nhà thơ của những sợi cỏ Bồng Thi vẫn tiếp tục liều lĩnh với đám thơ nửa tiên nửa tục:

Cởi xiêm y mà thành cởi cả bóng chiều:
Trăng đêm qua chẳng nhớ về
Áo mong manh cởi chiều mê mải sầu

 (Đi bên em)

Những “chạm”, “đau”, “khát”, “phun” đa nghĩa:

Ngón tay chạm hờ
Sợi cỏ đau điếng
Khát em đầy miệng
Bập bồng phun mưa

(Mưa chiều nắng chếch)

Những “vùng khe sâu”, “ngồi”, “đứng”, “chìm”, “nổi” vừa tạo hình thủy mặc thanh nhã vừa gợi những ẩn tình…

Em lấy cõi mưa nhung
Miên miên tơ óng xuôi vùng khe sâu
Em ngồi đâu chị đứng đâu
bỗng dưng hai đứa hai đầu hư không…
Em chìm chưa Chị nổi chưa
bỗng dưng hai đứa hai bờ tháng năm

 (Gọi đôi)

Trộn lẫn “đỉnh”, “ngực” vào tiếng chuông xuất thế:

Ôm em đỉnh núi sao buông thấp
hai ngực hòa tan một tiếng chuông

(Chùa Hương)

Đẩy những trụi trần vào chốn âm dương huyền vi:

Tình cờ đâu triệu triệu năm
Bỗng nằm
               bỗng thắm
                                bỗng chằm hai thân
Bỗng âm dương toát mình trần
Để sinh chi chit mắt ngần chớp mi
Để thành em của huyền vi
Âm vang khối sét cành si khuấy trời

Vỡ anh bừng tiếng kêu thầm
Vũng mê nũng gối nguyệt cầm gọi đôi
Đứng lên tiếng
gợn anh linh
suối mê động cửa khép mình thương sao

(Thèm)

Hoàng Cầm đánh bẫy người đọc bằng kiểu viết hoa của ông. Nhất là hai nhân vật trữ tình thuộc loại đáo để nhất là Chị và Em, khiến người ta hay có xu hướng cảm nhận đó là ám ảnh duy nhất của thơ ông. Nhưng ông còn viết hoa cả chữ Anh nữa. Vậy đâu phải trong ông chỉ có niềm ám ảnh tình “chị chị em em” sến sẩm. Trong thế giới được tâm linh hóa đến từng cử chỉ, từng ước vọng đa tình, mỗi đại biểu đa tình ấy đều được nhà thơ viết hoa. Con người hiện ra như một sinh thể linh thiêng, thế giới hiện ra như một khối linh thiêng, cuộc giao hoan hiện ra như một nghi lễ linh thiêng. Đó là sự cô đặc đến kiệt cùng một lối tư duy chọn tâm linh làm nơi giải mã mọi bi hoan của đời.

3. Nghĩ về một “mỹ cảm linh hóa” trong thơ Hoàng Cầm

Rất nhiều nhà thơ vẫn là đỉnh cao dù họ chỉ xuất hiện một vài lần với một vài bài thơ hoặc một vài câu thơ trứ danh. Một vài lần đáng giá ấy cho thấy họ được sinh ra từ một nền mỹ học nào đó, kết quả của một đợt “kết tụ” thầm lặng nào đó những giá trị mỹ học mà họ đã dung hóa được. Còn một số ít nhà thơ khác thì ngược lại, chính họ sinh ra mỹ học bởi khối trước tác khổng lồ về nhiều mặt của họ. Nguyễn Du là một thi hào đẻ ra mỹ học cho truyện thơ Nôm, cho lục bát, cũng như Hồ Xuân Hương đẻ ra mỹ học cho một kiểu thơ Nôm dạn dày phồn thực. Ở thời hiện đại, những nhà thơ biết đẻ ra một mỹ học cho mình không phải nhiều. Tất nhiên “mỹ học” ấy là một cách nói đứng từ góc độ thưởng thức hơn là từ quan niệm khoa học. Trong con số ít ỏi đó có Hoàng Cầm.

Thơ Hoàng Cầm gợi cho tôi ý nghĩ về một “mỹ cảm linh hóa”.

Tránh từ “thiêng hóa” vì trong thế đối trọng sẽ có từ “giải thiêng”. Hoàng Cầm không phải là người thiêng hóa rồi giải thiêng. Không có cuộc lật đổ nào trong thơ ông cả. Thế giới đó linh thiêng từ đầu đến cuối.

Nụ cười của nàng hàng xén phải là “mùa thu tỏa nắng”, chiếc yếm cổ truyền dù bị “phanh” ra, “quăng” hết nhưng phải là “yếm đào trút lại phía vô linh”, lá rơi thì không phải “vèo qua” mà phải là “rơi trên bờ lạnh thuở hồng hoang”, còn ngày gặp lại em thì “Bao giờ Anh xế về Em/ Ôm cây cỏ đắng ủ men cuối đời/ Cung đàn hoàng tử ngậm ngùi/ nghĩ sao thuở ấy hé cười ánh trăng”, lên chùa Hương chẳng giản đơn mà “Em trẩy chùa Hương phía giải oan”, “Anh trẩy chùa Hương phía xót thương” để rồi “Cầm tay em lạnh đưa đi mãi/ mê mải rừng mai thấp thoáng hương”… Không nỡ để bất kỳ một hiện hữu nào thiếu đi bóng tâm linh, thơ Hoàng Cầm khiến người đọc không yên, hiểu ít hiểu nhiều cũng đều không yên, bởi những phấp phỏng rất thật và rất lạ trong mỗi bài thơ. Cũng vì thế, mỗi câu thơ đắc địa của Hoàng Cầm đều mở ra những chân trời thăm thẳm. Suy cho cùng, tâm linh cũng là một quyền lực. Trong một bài phỏng vấn, Hoàng Cầm trả lời rất trong sáng: “Thần linh đọc Diêu Bông, tôi chép Diêu Bông”. Không, có lẽ không phải thần tiên giáng bút đâu. Ông nâng niu cảm hứng của mình, đặt cho nó cái tên là Thần linh. Linh hóa chính cảm hứng của mình, điều ấy sẽ dắt đưa ông đến những bờ thơ ít người lai vãng, nhưng âm vang của nó lại xuyên biết bao không gian thời gian. Dịch thơ Hoàng Cầm ra tiếng nước ngoài hẳn là rất khó, vì phần hồn ảo diệu mơ hồ trong đó quá nhiều. Dịch ngôn từ thì sao khó bằng dịch hồn. Mà hồn thì có cách nào dịch được?

Trường hợp Hoàng Cầm là cả một sự mâu thuẫn: viết như ông ít người hiểu, ít người bắt chước được, nhưng viết như ông thì được công chúng yêu mến “điên cuồng”. Những ý thơ như: “Anh đàn em hát níu xuân xanh”, “yếm rách còn ngăn được gió – tình em dang dở yếm nào che”, “diêu bông hỡi diêu bông”… đều đã sống tươi tắn trong những giai điệu đẹp của nền nhạc nhẹ Việt Nam.

Hoàng Cầm là nhà thơ được nhiều độc giả yêu mến và “lựa” được người đọc mình. Bài viết Hoàng Cầm - một đời nhớ tiếc, một đời níu xuân xanh của Hoàng Hưng, người đồng hương, người cùng hội cùng thuyền thơ ca, chứa đựng rất nhiều ý tưởng quan trọng trong việc định hướng tiếp cận giá trị thơ Hoàng Cầm: “Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học “ăn khách” bậc nhất, ông luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa tình quanh quẩn với hai loại tình: tình quê hương quan họ và tình “chị - em” độc đáo, ông như bị chế biến thành món giải trí dễ dãi cho một số đông tò mò hơn là thực sự thưởng thức văn chương”, và “Rất ít người để ý đến một Hoàng Cầm mới lạ của tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một không hai trong thơ Việt Nam”, rằng tập thơ Về Kinh Bắc là “thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là năng lượng giải thoát độc nhất”, rằng nhạc điệu thơ Hoàng Cầm là thứ nhạc “dặt dìu, đón đưa, dan díu, buông bắt”. Những ý tưởng này không phải của một người đọc bình thường, mà là sản phẩm của một niềm yêu vô kể và đớn đau vô kể, sản phẩm của một người đọc tri kỷ và nhẫn chịu nhiều phiền lụy từ tình yêu thơ. Tiểu luận Hoàng Cầm, gã phù du Kinh Bắc của Chu Văn Sơn là bức phù điêu tạc tượng thơ Hoàng Cầm. Nhãn tự của bài viết là chữ “phù du” – một thứ nhãn tự nói được quá nhiều khí chất, tư dung, ám gợi và cảm nghiệm của nhà thơ Hoàng Cầm. Và rất đáng chú ý, bài viết Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm của Đỗ Lai Thúy nhận được “một đảm bảo vàng” từ Hoàng Cầm với lời bình luận rằng người viết đã “bóc ra đúng cái con người thầm kín ở trong ông”.

Bấy nhiêu tên tuổi ở ngay buổi đương đại này cũng là những “đảm bảo” đáng giá cho sức sống của một tài thơ. Thơ khó đọc mà chọn được cả người đọc, chọn được cả công phu và sở trường của người đọc là rất hiếm. Hoàng Cầm, người thơ xứ Thuận Thành, người mãi ham mê “vớt mắt em về bến hóa sinh” đã làm được việc ấy. Hoàng Cầm đánh thức tinh hoa của những người chịu đọc ông. Tôi cho rằng đó là vinh dự lớn hơn hết của một đời thơ; dường như hơn cả niềm vinh dự “được tuổi trẻ hoan nghênh” như chàng Xuân Diệu năm xưa.

  LÊ THỊ THANH TÂM

___________

[1] Nhiều tác giả, Xuân thu nhã tập, NXB Văn học, HN, 1991, trang 20.

[2] Toàn bộ thơ Hoàng Cầm được trích dẫn trong bài viết này đều lấy từ nguồn: Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn (2003), Hoàng Cầm tác phẩm – Thơ, NXB Hội Nhà văn, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

[3] Chữ dùng của Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương, Hoài niệm phồn thực, NXB Văn học, Hà Nội, 2010.

[4] Đỗ Lai Thúy, Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm, VHNA

Nguồn: VHNA

BƯỚC GIÓ TRUYỀN KỲ: CẢM HỨNG LỊCH SỬ VÀ CẢM HỨNG THỜI ĐẠI!

Tôi đang cầm trong tay tập trường ca Bước gió truyền kỳ của nhà thơ Phan Hoàng. Đọc xong tập trường ca của anh, tôi vừa bất ngờ vừa xúc động. Tôi không thể không xúc động. Mừng cho anh! Ngay sau đó, tôi “a-lô” cho Phan Hoàng chia sẻ với anh vài nhận xét bước đầu của mình.
Nhà thơ Phan Hoàng

Anh rụt rè bảo: “Nếu không cảm thấy bất tiện, bác viết cho em vài chữ”. Phan Hoàng là thế. Nho nhã. Sẽ sàng. Gọi là viết lời giới thiệu thì hơi quá. Bởi lẽ, anh cũng là một nhà thơ. Vì quý anh, tôi nhận lời nhưng hẹn là, nếu tôi viết mà không có cảm xúc thì mong anh bỏ đi. Coi như là tôi chưa viết...

Thực lòng mà nói, tôi biết Phan Hoàng đã lâu, thường là đọc các sáng tác của anh, nhưng lêu lổng với anh thì mới đây thôi. Tôi thương Phan Hoàng ở cái tính vui vẻ, bông phèng, nhưng lao động nhà văn, anh lại rất nghiêm túc. Đối với anh, thơ chính là cảm xúc và là sự thách đố của số phận. Anh mê sảng với thơ, đánh vật với thơ hệt như người nông dân đánh vật với ruộng đồng, như ngư dân đánh vật với biển khơi vậy. Bước gió truyền kỳ của anh đã chứng tỏ điều đó. Nó cũng là một bước đi mang đầy cảm xúc và sự sáng tạo của anh. Với ba chương trong tập sách, không tính phần mở đầu và kết luận, Bước gió truyền kỳ đã cuốn hút tôi từ đầu không chỉ bằng ngôn từ mà còn bằng sự suy tư của một công dân, một nghệ sĩ.

Người mới con trai người vừa con gái
ước mơ căng tràn ngực gió thanh xuân

Người lên đầu non người xuôi cuối bể
xác hoá mây bay hồn về đất mẹ

Người từ ngàn năm người quên tên tuổi
bỗng gió theo về bỗng gió bay đi…

Có vẻ như Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng được viết từ cảm hứng lịch sử và cảm hứng thời đại. Khi dùng hình tượng ngọn gió làm trung tâm, xuyên suốt tập trường ca là anh có dụng ý nói về cái đã qua, đã muộn, đã trở thành quá khứ, thành lịch sử. Anh đã khéo léo kéo xa về gần, đưa cội nguồn về với hiện tại. Cả tập trường ca là một câu chuyện truyền kỳ về công cuộc mở cõi và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta. Những vấn đề mà anh đặt ra trong thơ luôn làm cho người đọc phải thảng thốt, giật mình. Anh không sử dụng những ngôn từ bóng bẩy, đa nghĩa nhưng lại có sức cảm hoá người đọc, dồn ép người đọc, tấn công người đọc từ mọi phía, mọi hướng, từ gần đến xa, từ cao xuống thấp giống như gió Tuy Hoà quê hương vậy. Anh đã đưa vào tập trường ca của mình một không gian mở đầy máu và nước mắt kéo dài hàng ngàn ngàn năm, thậm chí còn dài hơn thế:

Lớp lớp người người
tay kiếm tay cờ
lớp lớp người người
tay rìu tay giáo
mắt chớp lửa mặt trời phương Nam
lẹ hơn sóc
mạnh hơn hổ báo
nhanh hơn tiếng hú rừng hoang
lẫm liệt lao mình
       máu
       máu
       máu
     mở cõi
       máu
       máu
       máu
   giữ nước!

Khi viết ra những dòng thơ mang tính hiệu ứng này, không phải là anh kể công việc mở nước và giữ nước thay cho ông cha, mà anh muốn người đọc hiểu ra một vấn đề mang tính muôn thủa là, để có một non sông liền dải như ngày nay, tổ tiên ta đã phải trả giá như thế nào, từ đó, mỗi người tự tìm ra cách ứng xử với ông cha thế nào cho đúng. Điều đáng nói là khi viết về lịch sử Phan Hoàng không sử dụng những ngôn từ xơ cứng, lặp lại những chiến công xưa cũ của cha ông, mà đưa ra những lập luận khác và những khái niệm khác - Những khái niệm mang đầy tính lịch sử và nhân văn. Do truyền tải thông điệp một cách mới mẻ, anh đã làm cho người đọc không có cách gì mà không sẻ chia nguồn cảm hứng và những suy nghĩ với anh.

Ơi lp lớp người người
hiên ngang đôi cánh ước mơ chim Việt…
              
Bước gió vó ngựa uy phong Lê Thánh Tôn…

Bước gió Nguyễn Hoàng
bước gió Lương Văn Chánh
bước gió Nguyễn Hữu Cảnh
bước gió những đoàn quân vô danh
bước gió những lưu dân vô danh
bước gió những nghệ sĩ vô danh
bước gió những mỹ nữ vô danh…
nhập hồn xóm làng
nhập hồn sông suối
nhập hồn núi rừng
nhập hồn biển đảo…
Trường ca Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng

Phan Hoàng đã cung cấp cho người đọc một nguồn thông tin mới qua từng số phận và từng địa danh lịch sử. Những dữ liệu mà anh cung cấp không chỉ làm phong phú tri thức cho người đọc, mà còn giúp cho họ có được một cái nhìn khách quan bằng văn chương khi tiếp cận lịch sử.

Có thể từ nguồn cảm hứng lịch sử mà tập trường ca của anh giống như một bài hát với những âm giai khắc khoải, ngợp buồn và đầy nỗi khát khao. Bài hát của anh vừa thực vừa hư. Thực trộn lẫn hư. Hư hoà trong thực. Anh gọi đó là những ngọn gió vô danh. Hiểu theo nghĩa trần trụi thì nó không phải là gió Đông, gió Tây, gió Nồm, hay gió Bấc. Ngọn gió ấy được hình thành qua những cuộc thiên di văn hoá từ đất Tổ về phương Nam, qua những cuộc đổ bộ văn minh từ đất Phong Châu vào đồng bằng Nam Bộ.

Những ngọn gió mở đường trĩu nặng ước mơ
khởi từ tình yêu bùn lầy sỏi đá dựng ruộng dựng nương
từ câu hát then ới la đằm thắm váy hoa núi đồi đất Tổ
từ câu quan họ liền anh liền chị hẹn hò Kinh Bắc cởi áo trao nhau
từ câu bài chòi hò khoan đối đáp duyên hải miền Trung sóng vỗ
sông nước nhớ thương đọng lại nỗi buồn nông sâu thành câu vọng cổ
nỗi buồn ngọt ngào gió chướng phương Nam se se cay đắng
nỗi buồn ly hương dựng mới quê hương…

Đọc Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng, người xem hoàn toàn không có cảm giác bị áp đặt. Nó ngấm vào lòng người một cách tự nhiên, như lịch sử vốn có. Thông qua ngọn gió, bước đi của gió, anh đã gởi gắm bao điều tâm sự vừa xa xăm, diệu vợi lại vừa nóng hổi hơi thở hiện tại. Cách thể hiện thơ của anh thoắt ẩn, thoắt hiện, khi chìm đắm, lúc lửng lơ, làm cho người xem cứ phải đuổi theo, rượt bắt những câu chữ của anh. Cũng bằng nguồn cảm hứng lịch sử, Phan Hoàng đã biết cách khai quật lãng quên, buộc người đọc phải nghiền ngẫm, nhìn lại những giá trị cũ bằng cách tiếp cận mới. Anh khẳng định một cách chắc nịch là không có dân tộc nào, không có đất nước nào phải oằn vai gánh mười bốn cuộc chia ly không dám hẹn ngày về như dân tộc Việt Nam. Cũng không có một dân tộc nào phải gánh chịu nhiều oan trái như dân tộc Việt Nam này.

Khi lịch sử gồng mình trước những cơn bão lớn
mọi con đường đất nước đều thẳng hướng biên cương.

Phan Hoàng đã lôi kéo người đọc cùng đồng hành với anh cuốn theo ngọn gió lịch sử, ngẫm ngợi cùng anh những nỗi đau mà mỗi người dân đều phải gánh chịu, để rồi nâng niu cùng anh những khát khao và cả niềm hy vọng.

Có thể nói Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng là một tập thơ được thể hiện bằng một tư duy sáng tạo nóng hổi, trong đó phẩm chất nhà thơ và phẩm chất công dân hoà quyện với nhau một cách khăng khít, khó có thể phân chia một cách rạch ròi.

Cảm ơn người mở đường
hoá thân bước gió truyền kỳ
ta lang thang khắp mọi ngả đường Tổ quốc
uống dòng hào khí bi hùng ngàn năm
dòng hào khí đánh đổi tinh hoa lớp lớp người người...

Gấp tập sách lại, người xem như vẫn còn nghe văng vẳng từ ngàn xưa tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua và cả tiếng hát ngợp buồn của những người mở cõi. Ta còn nghe đâu đó tiếng cày cuốc lập ruộng đồng, tạo dựng non sông của những lưu dân khẩn hoang, làm ra văn hoá và thóc gạo cho mình.

VĂN LÊ
(Lời tựa trường ca Bước gió truyền kỳ)

____________________________

Nhà thơ Phan Hoàng tên thật là Phan Tấn Hùng, tuổi Đinh Mùi, sinh ngày 10.10.1967 ở cuối dòng sông Đà Rằng (hạ nguồn sông Ba) thuộc thành phố Tuy Hoà; lớn lên ở quê nhà Hoà Đồng, huyện Tây Hoà, tỉnh Phú Yên. Học phổ thông cơ sở ở Hoà Đồng, học phổ thông trung học ở Trường PTTH Lê Hồng Phong, từ nửa năm lớp 10 bắt đầu thi vào học lớp năng khiếu chuyên văn đầu tiên của tỉnh Phú Khánh (cũ) ở Trường PTTH Nguyễn Huệ (Tuy Hoà) và Trường PTTH Lý Tự Trọng (Nha Trang).

Tốt nghiệp chuyên ngành ngôn ngữ Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, nay là Khoa Văn học - ngôn ngữ Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Từng làm phóng viên - biên tập viên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, Chủ biên tờ Đương Thời (trước đây là Người Đương Thời).

Uỷ viên Ban Chấp hành - Trưởng ban Nhà văn trẻ kiêm phụ trách báo chí - truyền thông Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh khoá VI (2010-2015), Chủ biên website nhavantphcm.com.vn.

Phó Chủ tịch - Thường trực Hội kiêm Chủ tịch Hội đồng Thơ - Hội Nhà văn TP.HCM khoá VII (2015-2020), Chủ biên website nhavantphcm.vn - nhavantphcm.com.vn.

Từ ngày 01.01.2015, nhà thơ Phan Hoàng còn là Chủ nhiệm Văn phòng miền Nam báo Văn Nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản:

Tượng tình (thơ 1995)
Hộp đen báo bão (thơ 2002)
Chất vấn thói quen (thơ 2012, tái bản 2015)
Bước gió truyền kỳ (trường ca 2016)
- Phỏng vấn Tướng lĩnh Việt Nam (3 tập 1997-2000, tái bản 4 lần)
Phỏng vấn Người Sài Gòn (2 tập 1998-1999)
- Phỏng vấn Người Hà Nội (2 tập 1999-2000, tái bản 2 lần)
Dạ, thưa thầy! (2 tập 2000-2002, tái bản 2 lần)
Sài Gòn đất lành chim đậu (ký sự nhân vật tập I-2016, tái bản 1 lần 2016; tập II-2018)
Sài Gòn đất thiêng khí tụ (ký sự nhân vật 2017, tái bản 1 lần 2018)
Sài Gòn ngọt từ da thịt ngọt ra (tản văn 2018)

Giải thưởng:

- Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012 cho tập thơ Chất vấn thói quen.
- Giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM năm 2012 với tập thơ Chất vấn thói quen.
- Giải ba cuộc thi thơ nhạc Đây biển Việt Nam với hai bài thơ Mặt trời trong ngôi nhà đầy sóng đầy gió, Gió hợp hôn đất nước, do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam và báo VietNamNet tổ chức năm 2011-2012.
- Giải tư thơ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 2003-2004 với bài Bước gió truyền kỳ.
- Giải nhì thơ sinh viên - học sinh Thành phố Hồ Chí Minh năm 1989 với bài Áo trắng trong mơ.
- Giải nhất bút ký báo Khoa Học & Đời Sống năm 1998 với bài Khi nhà thơ làm kinh tế.

Quan niệm về văn học:

Thi ca đối với tôi là một không gian thẩm mỹ riêng, một thế giới thiêng liêng để tôi được đắm chìm vào đó, tìm thấy vẻ đẹp của con người quá khứ lẫn hiện tại, tự phát hiện bản thể chính mình. Nhà thơ phải biết náu mình để cho cái đẹp thi ca lên tiếng.



BÀI MỚI ĐĂNG

NGUYỄN PHAN QUẾ MAI - HÃY NÓI VỀ CUỘC ĐỜI

Xe vút đi trên những con đường cao tốc, còn tôi thì ngồi đó, lặng người trong giai điệu trầm bổng của Khúc Thụy Du. Mùa hạ California nở bun...