Thứ Ba, 29 tháng 5, 2018

NGUYỄN NGỌC TƯ, NỮ NHÀ VĂN XÓM RẪY

Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ nữ hiện diện đặc biệt trong làng văn như một vì sao lạ trong không gian văn học đã gần hai thập niên. Sinh ra trong một gia đình lam lũ, sống bằng nghề trồng trọt, nhà cửa đơn sơ ở xóm Bà Điều, Đầm Dơi, bao quanh bởi thảm rau bèo xanh ngút, tận U Minh nơi miền đất Mũi.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Thuở nhỏ, Nguyễn Ngọc Tư là cô bé hiền hòa, chăm chỉ, chiều chiều tẩn mẩn hái rau ba trồng, cho má tinh sương hôm sau đem ra chợ bán. Ban đầu vì thích viết và muốn bớt gánh nặng kinh tế cho ba mẹ, Nguyễn Ngọc Tư mới hết cấp phổ thông cơ sở đã nghỉ học, có ý muốn xin làm việc tại một cơ quan văn nghệ báo chí tỉnh Cà Mau, môi trường thuận tiện có thể phát triển nghề cầm bút mình đam mê. Những lúc thấy con gái ngồi trầm tư suy nghĩ trước trang giấy hay máy laptop, cha của Nguyễn Ngọc Tư biết được ước nguyện của con, và nhận ra thêm điều mình còn phải làm. Với tấm lòng thương con, hiểu rõ con gái có khiếu văn chương, người cha có vẻ thực tế, trải nghiệm như một người đã từng cầm bút, thường không bỏ qua bất cứ cơ hội tốt nào để khuyến khích con mình: “Nghĩ gì, viết nấy. Viết điều gì con đã trải qua”. Cảm thông sâu sắc được tấm lòng của bậc sinh thành, Nguyễn Ngọc Tư vừa nỗ lực công tác tốt ở cơ quan, vừa tranh thủ có thời gian cầm bút hay ngồi trước máy tính để sáng tác. Mấy truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư viết về tình bạn ở đồng quê, được cha đem gởi ở tạp chí Văn nghệ Bán đảo Cà Mau được coi là phép thử lần đầu tiên với cô bé ham cầm bút. Không ngờ, cả ba truyện đều được đăng báo. “Con nhỏ học hành dở dang này viết được đó”. Ông Tổng Biên tập vừa nhận xét vừa xoa đầu tác giả, dặn dò: “Viết nữa đi con”. Thế là từ đấy, Nguyễn Ngọc Tư ngày xuống ao, ra liếp rẫy, tối về lại ngồi viết say sưa. Hạnh phúc đầu tiên của cô học trò đạm bạc, mê viết và có nguyện vọng theo nghiệp văn chương tại xứ U Minh đã đến như một bình minh rạng rỡ, ấm áp soi sáng cho những chiếc rễ đước non tươi mạnh mẽ, hăm hở cắm phặp sâu xuống mảnh đất nghệ thuật xứ Đầm Dơi Nam bộ. Vào làm văn thư và học việc phóng viên tại cơ quan, Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu viết tin, viết bài và cả truyện ngắn. Đi thực tế tại cửa biển Khánh Hội, sông Đốc… sau khi cơn bão dữ số 5 ập vào đất Mũi, được chứng kiến cảnh làng quê đổ nát, điêu tàn, về nhà Nguyễn Ngọc Tư  đã có ký sự : Nỗi niềm sau cơn bão dữ. Tự cho là ký sự mình mới viết còn sên sến, nhưng Nguyễn Ngọc Tư cũng đoạt giải ba báo chí của tỉnh năm 1997. Quy ra lúa, giải thưởng không có là bao nhưng nó tạo niềm tin, làm bệ phóng tinh thần để tác giả khẳng định phương châm làm việc cho mình: “Viết là viết, bất kỳ lúc nào, không sắp đặt, không bố cục. Cứ để đoạn sau cuốn theo đoạn trước”. Nguyễn Ngọc Tư nghĩ viết cũng gần gũi như sống đời thường, như ăn nói, đi đứng tự nhiên hằng ngày của con người mà không thần thánh hóa văn chương. Hẳn là nhà văn đã nghĩ người viết hay cũng như một diễn viên phải đóng nhập vai trên sân khấu. Nghĩa là tác giả viết như đang trong tâm trạng của chính nhân vật trong truyện của mình như một chân lý không được coi là xa lạ, thờ ơ đối với người cầm bút. Và Nguyễn Ngọc Tư đã thong dong, bền bỉ đi theo con đường nghệ thuật mình đã vạch ra giữa bận rộn công việc nhà và tại cơ quan. Cứ thế mà những truyện ngắn: Ngọn đèn không tắt, Nỗi buồn đất lạ, Lý con sáo sang sông, Chuyện của Điệp, Ngổn ngang, tiếp nối nhau ngồn ngộn ra đời, gây được tiếng vang trong làng cầm bút do thực chất nội dung hiện thực và nghệ thuật đặc biệt của nó.

Trong hầu hết các truyện, Nguyễn Ngọc Tư dường như đã làm một thông điệp, nói hộ thay cho người dân đói nghèo, cơ cực nơi vùng đất Mũi, những ước mơ thầm kín, những nỗi lòng đau thắt của kẻ yêu thương lỡ dỡ và ngang trái của những mối tình chân không thành bắt nguồn từ cảnh hàn vi nghiệt ngã. Và người đọc không khó nhận ra nhân vật lãng đãng, cốt truyện tản mạn không hề mang dấu ấn rập khuôn theo nguyên mẫu nào. Tác giả viết dễ dàng như thể đang đi bắt sâu ở liếp rẫy ngoài đồng, luống rau trong vườn hoặc chuyện đuổi gà vịt nơi sân nhà. Tuyệt nhiên, Nguyễn Ngọc Tư không thiết tha gì đến chuyện muốn làm văn sĩ, hay để mong đoạt giải, được tiếng tăm trên văn đàn. Tác phẩm viết xong thì như bỏ quên đâu đó. Mãi đến lúc có người giục khi sắp hết thời hạn cuộc thi “Văn học tuổi 20” - năm 2000 do Nhà xuất bản Trẻ tổ chức, Nguyễn Ngọc Tư mới ra bưu điện, gởi bài dự thi. Không ngờ, cô bé viết văn xóm rau bèo lại ẵm giải nhất với phần thưởng 20 triệu đồng. Năm sau, cũng với chùm truyện “Ngọn đèn không tắt” ấy, Nguyễn Ngọc Tư đoạt luôn giải B của Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi giải dành cho tác giả trẻ nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam kèm theo nhiều bằng khen và tiền thưởng. Mới 27 tuổi, Nguyễn Ngọc Tư đã được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, được làm vợ, làm mẹ và tiếp tục hăng say viết. Thấy tài hoa trẻ còn hứa hẹn nhiều triển vọng, bạn bè vặn vẹo hỏi vui: “Sao viết văn mà lấy chồng chi sớm”, Nguyễn Ngọc Tư cũng thành thật: “Có chồng là thợ bạc cách nay bốn năm - cuộc hợp hôn không hẹn mà có hạnh phúc… Quan trọng là không để có chồng mà xuống dốc”. Mà đúng là sau đó người ta thấy Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục lên dốc trên con đường nghệ thuật. Không viết truyện thì viết báo, và ai cũng biết Nguyễn Ngọc Tư có “hàng bán chạy” từ Nam chí Bắc. Sau khi được tuyên dương là một trong “Mười nhân vật trẻ xuất sắc tiêu biểu của năm 2002” vào năm 2003, Nguyễn Ngọc Tư lại đoạt luôn giải thưởng của Hội Nhà văn Việt nam (2006) với tác phẩm gây không ít xôn xao dư luận “Cánh đồng bất tận”, dù tác phẩm này sau đó lại tiếp tục nhận thêm giải thưởng Văn học Asean (2008), rồi được dựng thành phim (2010) cùng tên và viết thành kịch bản sân khấu. Đã trở thành khuôn mặt nổi tiếng quen thuộc trong làng văn, mặt mày sáng sủa có duyên, nhưng Nguyễn Ngọc Tư là một phụ nữ khiêm tốn, kiệm lời, rất sợ lên báo hoặc phỏng vấn, vì ngại phải nói nhiều hoặc tiếp xúc với đám đông, xuất hiện trước quần chúng - một tính cách mà các nhà tâm lý học gọi là con người “hướng nội” (introvert) dù bản thân đương sự tài hoa xuất chúng. Bù trừ vào tính cách đặc thù này của Nguyễn Ngọc Tư, ai cũng thấy rõ một điều, qua các bài phỏng vấn, trao đổi với nữ nhà văn. Khi bắt đầu chịu nói hay trả lời, Nguyễn Ngọc Tư vẫn nhỏ nhẹ mà trở nên lưu loát, sâu sắc, trí tuệ lại hay văn vẹo phản biện trong cách đối đáp, bằng những từ ngữ mang ý nghĩa khai phá, sáng tạo như cách đặt tựa truyện ngắn của nhà văn: Ngọn đèn không tắt, Gió lẻCuối mùa nhan sắcCánh đồng bất tận…Về cá tính nghệ sĩ cũng có nét độc đáo: trong khi Sơn Nam không thích nghe nói chuyện gì khác ngoài văn chương và nói dóc thì Nguyễn Ngọc Tư lại tránh nghe chuyện văn chương mà chỉ thích nói chuyện đời! Là phụ nữ có gia đình, chồng con, Nguyễn Ngọc Tư thích giao du và nhâm nhi với đàn ông (đến mức ông chồng phải thắc mắc sao điện thoại toàn “anh” không à?) hơn là phụ nữ vì sợ nhiều chuyện!

So với một số nhà văn trên thế giới đã sớm nổi tiếng ở độ tuổi trên dưới đôi mươi ngày ấy của Nguyễn Ngọc Tư như: Francoise Sagan (1935-2004), Arthur Rimbaud (1854-1891), Thôi Hiệu (704-754), Chế Lan Viên (1920-1989), Nguyễn Bính (1918-1966), ở tuổi bốn mươi hiện nay, nhà văn đã sỡ hữu một sự nghiệp văn chương được gọi là đáng kể. Chưa vội nói đến thơ và tạp bút của Nguyễn Ngọc Tư, ta thử bước chân tham quan vài nơi trong vườn truyện trù phú của nhà văn. Ai cũng biết “Ngọn đèn không tắt” là truyện ngắn, lần đầu tiên của Nguyễn Ngọc Tư, được trao liên tiếp ba giải: Giải Mai Vàng, Văn học tuổi hai mươi và giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, trong vòng hai năm (2000-2001). Trong nội dung tác phẩm, Nguyễn Ngọc Tư vẽ lên cái Xóm Rạch nhỏ nhít vùng biển nơi đó có cô gái tên Tươi 19 tuổi, tràn trề sức sống, hồn hậu như mảnh đất phương Nam. Tươi mạnh mẽ với phong thái của người đi khai rừng phá núi nhưng dịu dàng, ngọt ngào, đôi mắt sáng lấp lành như cháy hoài ngọn lửa tin yêu vào cuộc sống. Người đọc nhận thấy bàng bạc trong truyện là những tấm lòng của từng con người như Tư Lai, Tươi qua từng thế hệ trong gia đình ông Hai Tương, đã dành trọn sự kính trọng và ân tình cho những anh hùng liệt sĩ - những người đã ngã xuống vì độc lập tự do cho tổ quốc quê hương. Công việc hằng năm đi kể chuyện lịch sử quê hương của những thành viên trong gia đình ông Hai Tương là những việc làm xem ra rất bình thường, nhưng mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Đó là : quyết tâm giữ mãi ngọn lửa truyền thống đấu tranh đuổi giặc giữ nước của cha ông, để cho “ngọn đèn” lịch sử chói lọi của dân tộc, của cha ông cháy mãi, sáng mãi trong từng tâm hồn của thế hệ mai sau. “Ngọn đèn không tắt” không phải là một sáng tác phá cách về sáng tạo văn chương nhưng khiến người đọc phải trân trọng ý nghĩa giáo dục về tính nhân văn tỏa rạng trong từng hình tượng văn học ở tác phẩm mà Nguyễn Ngọc Tư đã ký thác. Những hình ảnh của con người Nam bộ mà Nguyễn Ngọc Tư phác họa trong “Ngọn đèn không tắt” và nhiều tác phẩm khác khiến người đọc miệt vườn có thể liên tưởng tới quá trình hình thành và phát triển của cây đước nơi rừng U Minh. Trái đước nẩy mầm từ lúc còn treo lơ lửng trên cây. Khi rụng xuống, nó được sóng biển đưa đi trôi dạt khắp nơi, khi gặp bùn lầy, trái đước trụ lại, rễ   non bám vào phù sa. Sau khi bám rễ trong đất, mầm đước nẩy lên một búp non màu đỏ như lửa và xòe ra hai lá xanh non đầu tiên đón ánh sáng và khí trời. Quá trình bén rễ cũng là quá trình nâng cây đước đứng thẳng lên giữa đất trời để cuộc đời hiểu được sứ mệnh của nó. Một bài học ý nghĩa cao đẹp từ cây đước đã được minh họa bằng hình tượng những nhân vật trong tác phẩm vừa được giải của Nguyễn Ngọc Tư.

Như ngọn đèn cứ mãi cháy càng lúc càng sáng, hơn năm năm sau (2006), truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục ra đời, được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam rồi giải Văn học Asean (2008) nhưng gây không ít chấn động trong dư luận. Cũng lấy bối cảnh không gian ở đồng bằng sông Cửu Long như “Ngọn đèn không tắt”, Nguyễn Ngọc Tư xây dựng tác phẩm mới này dựa vào hoàn cảnh thời gian và tuyến nhân vật không giống như trước đây. Dường như nhà văn có ước mơ hiện thực hóa xã hội trong tác phẩm văn học của mình.“Cánh đồng bất tận” của nhà văn xứ Đầm Dơi hình thành một thế giới nhân vật với Út Vũ, và hai đứa con là Nương, Điền cùng người phụ nữ dạn dày làm nghề không vốn từ bốn phương trôi giạt về. Sau khi Út Vũ đốt nhà vì vợ theo trai, họ ra đi cùng sống đời du mục quanh năm trên một chiếc ghe chở đàn vịt chạy đồng, đi qua những thửa ruộng ngập mặn và váng phèn. Tên truyện có vẻ mênh mang thi vị nhưng cốt truyện lại đầy khúc mắt, gây cấn với những nhân vật được đặt vào những tình huống căng thẳng đầy kịch tính. Đó là người vợ của Út Vũ ngày ấy, “một người đàn bà có cái cười lấp lánh cả khúc sông” từng được một người đàn ông thương hồ buôn vải ngầm khen đẹp, để rồi phải bỏ tổ ấm nhà cửa và người chồng đầu ấp tay gối: “Sáng sau, thím Tư đi chợ, tới bến tàu cho hay Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai”. Đó là người mẹ đã đành lòng bỏ biệt những đứa con máu thịt, ra đi biệt dạng, vì chúng nó vô tình cho biết đã nhìn lén được qua kẹt bồ lúa cảnh người mẹ ruột của mình với người đàn ông xa lạ không phải là cha mình: “Trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi!” để trả thay tiền khúc lụa màu đỏ cho gã thương hồ. Và hận tình, người chồng trả thù vợ trên thân xác những người đàn bà khác. Đó cũng là tình huống đứa con gái tốt bụng của Út Vũ tên Nương, cứu được người đàn bà đang bị người ta đánh ghen dã man đến mức độ chưa từng thấy: “Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị”. Rồi đến lượt chính cô gái ngây thơ mới 17 tuổi ấy, lại trớ trêu bị bọn côn đồ làng quê cưỡng hiếp tàn nhẫn ngay trước mặt người cha ruột của mình đến lúc phải thảng thốt: “Không biết con bị…có con không cha?”. Dưới ngòi bút tả thực của Nguyễn Ngọc Tư, những nhân vật xuất hiện được mô tả một cách nghệ thuật mà tự nhiên, trần trụi và táo bạo đến độ nhà văn Sơn Nam phải thốt lên “Nguyễn Ngọc Tư viết hay nhưng rất hỗn”. Viết truyện ngắn hoặc tiểu thuyết, khi diễn tả tính cách, tâm lý, tình cảm nhân vật… - theo nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan - tác giả chỉ khách quan  tả bằng cách nêu lên chi tiết về chân dung, thái độ… của nhân vật mà không để ý kiến nhận xét của người viết xen vào. Nguyễn Ngọc Tư đã làm như vậy trong hầu hết các truyện mang tính hư cấu của mình. Lời văn, ngôn ngữ minh họa nhân vật, cảnh quan của của Nguyễn Ngọc Tư trong “Cánh đồng bất tận” dù mang sắc thái Nam bộ: Tự nhiên, không cầu kỳ nhưng vẫn ví von, bóng bẩy, câu văn vẫn có giai điệu, sắc màu nghệ thuật khá gần gũi với nhà văn Trang Thế Hy mà ít gặp có điểm tương đồng với nhà văn Sơn Nam. Đây là đoạn văn Nguyễn Ngọc Tư bài bản mở đầu bằng câu văn tả cảnh nghệ thuật có tu từ và màu sắc, mở ra không gian khá thi vị mà tiêu điều, để làm nền trong “Cánh đồng bất tận”: “Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hản dường như đã gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cậy lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn ngang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn…”. Do vậy, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là một tác phẩm được coi là đậm dấu ấn về sex bao trùm hết mọi người trong gia đình: Út Vũ, người vợ hư hỏng, người phụ nữ làm đĩ, gã thương hồ buôn vải, Nương…và bọn côn đồ làng quê.

Người đọc nhớ lại, văn học thế giới từ trước đến nay đã có những nhà viết tiểu thuyết chứa dựng ít nhiều không khí sex như : nhà văn Pháp Émile Zola (1840-1902), Ngô Tất Tố (1894-1954) với Tắt đèn, Vũ Trọng Phụng (1912-1939) với Làm đĩ, Giông tố, Kỹ nghệ lấy Tây,…, Hoài Điệp Tử với Vũng lầy, Nguyễn Thụy Long (1938-2009) với Con đĩ ngựa, Nguyễn Thị Thụy Vũ (sinh năm 1937) với Mưa không ướt đất, Nguyễn Thị Hoàng (sinh năm 1939) với Vòng tay học trò… Nhưng đậm đặc nhất là ở nhà văn Nhật Murakami: Mịt mùng với Rừng Na Uy, nữ nhà văn Pháp Christiane Rochefort (1917-1998): triền miên với Le repos du guerrier (Phút dừng chân của người lính trận), Lê Xuyên (1927-2004): Trần trụi với Rặng trâm bầu, Đỗ Hoàng Diệu (sinh năm 1976): huyễn hoặc, phi luân với Bóng đè, … Nhưng ở “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư, ai cũng thấy rõ nồng độ sex dường như triền miên, đậm đặc hơn nhiều. Chuyện ngại nhìn và khó nói ấy đã bao phủ mịt mùng không dứt qua ngòi bút tài hoa, giàu cá tính mà thấm đẫm nét hiện thực xã hội trong suốt chiều dài nội dung cuốn truyện vừa của nữ nhà văn miền đất Mũi. Do vậy mà từ lúc xuất hiện trên thị trường sách đọc, dù liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng đỉnh cao, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư đã làm dấy động văn đàn với những lời khen chê rầm rộ từ mọi giới trong cả nước. Mới hơn thập niên, ý kiến phẩm bình chung về tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư trong đó tập trung cô đặc vào “Ngọn đèn không tắt” và “Cánh đồng bất tận”, đã làm hao tốn không biết bao nhiêu giấy mực và mối quan tâm của độc giả, cả quần chúng trong và ngoài giới văn học.

Tóm lại, Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn có chân tài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của nhà văn mang tính hiện thực sâu sắc vì đã phản ánh được chân dung đích thực với tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của lớp người lao động nghèo khó ở đồng bằng  sông Cửu Long, bằng một phong cách nghệ thuật tiêu biểu cho lối viết chơn chất mà cô đọng của những người cầm bút ở phương Nam...

Chưa vội nói thêm đến tác phẩm khác của khối lượng sáng tác đồ sộ trong đó có tiểu thuyết “Sông” cùng những truyện ngắn, tạp văn, tùy bút và tập thơ “Chấm” của Nguyễn Ngọc Tư, với “Ngọn đèn không tắt” và “Cánh đồng bất tận”, có thể coi nữ nhà văn miền đất Mũi là một hiện tượng đặc biệt trong làng văn học nước nhà. Riêng phim “Cánh đồng bất tận”, được chuyển thể từ cuốn truyện cùng tên của Nguyễn Ngọc Tư, sau khi phát hành đã đạt doanh thu 17 tỷ và tập truyện ngắn “Đào” in 25.000 bản, rồi tiểu thuyết “Sông”: 11.000 bản, ra mắt và được ký tặng bạn đọc tại Hội trường 87, Triển lãm Giảng Võ Hà Nội. Chỉ sau hơn tuần đến hai tháng, những cuốn sách đã bán hết, được tái bản, đủ để nói lên tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư đã đi vào lòng người đọc và tên tuổi nữ nhà văn Nguyễn Ngọc Tư thực sự có vị trí đặc biệt trên văn đàn cả nước

NGUYỄN THANH
Theo Văn Nghệ 

TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:


Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2018

NHÀ THƠ HOÀI VŨ: CÓ NỖI THƯƠNG ĐAU, CÓ NIỀM HY VỌNG

Thi sĩ Hoài Vũ tâm sự với chúng tôi: “Người ta nói tôi là người Long An cũng phải. Long An đã trở thành quê hương thứ hai của tôi. Ngoài Long An, tôi còn gắn bó với hai vùng đất khác là miền Đông Nam bộ và vành đai ven Sài Gòn, những nơi nuôi dưỡng tôi trưởng thành, cung cấp nguồn sáng tạo vô tận cho trang viết của tôi”!
Nhà thơ Hoài Vũ - Ảnh: Phan Hoàng

Kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước, thi sĩ Hoài Vũ cũng chuẩn bị sinh nhật thượng thọ 80 tuổi vào ngày 25-8. Trong niềm vui và hy vọng, ông cũng đau đáu những nỗi xót xa, khi nhìn lại đã có nhiều bạn văn cùng thế hệ một thời chung chiến hào giờ lần lần vắng bóng...

Ký ức oanh liệt và bi thương

Người gốc Quảng Ngãi ở miền Trung nhưng gần cả đời thi sĩ chiến sĩ Hoài Vũ - Nguyễn Đình Vọng gắn bó với Sài Gòn và Nam bộ. Những bài thơ thành công nhất của ông, được chắp cánh thêm bởi âm nhạc, cũng viết về vùng đất này như: Vàm Cỏ Đông, Đi trong hương tràm, Anh ở đầu sông em cuối sông, Hoàng hôn lặng lẽ (Chia tay hoàng hôn),… và nhiều truyện ngắn, bút ký khác.

Với tư cách công dân, ông cũng đã xả thân vì lý tưởng, hoà mình trong dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc, tay bút tay súng ngược xuôi khắp miền Đông đất đỏ đến miền Tây sông nước. Nhiều đồng đội đồng nghiệp thân thiết của ông như Trần Hữu Trang, Lê Anh Xuân, Nguyễn Thi, Lê Vĩnh Hòa… đã hy sinh trong cuộc chiến tranh ác liệt. Những người may mắn sống sót trở về từ chiến khu, sau 40 năm hòa bình, bây giờ kẻ trước người sau cũng đã lần lượt ra đi như các bạn văn: Viễn Phương, Diệp Minh Tuyền, Mai Văn Tạo, Chim Trắng, Võ Trần Nhã, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,… và cả Trần Bạch Đằng, vừa là đồng nghiệp vừa là lãnh đạo cấp trên trực tiếp của ông.

Vì vậy, đối với thi sĩ Hoài Vũ được sống thượng thọ đến tuổi 80, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của đất nước, trong đó có sự phát triển không ngừng của đội ngũ sáng tạo văn học nghệ thuật, là điều ông hết sức vui mừng. Thi sĩ chân thành cho rằng, số mình may mắn, nhiều lần thoát chết trong gang tấc. Có lúc đang đi thì ông bị bom B.52 hất lấp, may có bụi le ngã gần ông kịp níu lại ngoi lên chứ không thì đã mất mạng. Lần khác ông bơi qua sông Bé, nước chảy mạnh làm đứt dây mây, ông chới với trôi giữa dòng nước dữ lồng lộn, nhưng may tấp vào… một gốc cây to nên lại thoát khỏi tử thần!

Đâu chỉ bom đạn mà rõ ràng trên chiến trường còn bao mối đe dọa nguy hiểm khác luôn rình rập sinh mạng con người. Nỗi ám ảnh lớn nhất với Hoài Vũ là những khi đi chiến trường ba bốn tháng để bám đất bám dân, nhưng có những vùng bị địch hủy diệt thành “vùng trắng” chẳng còn mảy may sự sống. Lúc thủy triều lên nhìn những dòng kênh rất thơ mộng. Lúc nước rút xuống thì xương người phơi trắng xóa, có cả những mái tóc dài thiếu nữ quấn vào thân tram nhìn thật đớn đau. Nỗi ám ảnh ấy cũng đã đi vào thơ ông, như trong bài Vàm Cỏ Đông:

“Có thể nào quên những con người
Tóc còn xanh lắm, tuổi đôi mươi
Dám đổi thân mình lấy tàu giặc
Nụ cười khi chết hãy còn tươi”

Chiến tranh đã lùi xa gần nửa đời người, nhưng ký ức oanh liệt và bi thương chiến trường thì không thể phai mờ trong lòng thi sĩ Hoài Vũ. Có những đêm ông thức trắng vì một kỷ niệm xốn xang nào đó. Ông kể: “Tôi nhớ anh Lý Văn Sâm, một nhà văn có tài, một chiến sĩ cộng sản vào tù ra khám, suốt đời bám trụ chiến đấu với tất cả tấm lòng. Tôi cũng quý anh Trang Thế Hy, một cây bút tâm huyết, đáng trân trọng. Anh Đoàn Giỏi, một tài năng văn chương đích thực. Anh Nguyễn Văn Bổng, một nhà văn gốc Quảng Nam nhưng chí cốt với Nam bộ, bất cứ nơi nào cần đến là anh có mặt. Và không thể quên anh Giang Nam, một con người chân chất, bình dị, sống có tình, gắn bó mật thiết với nhân dân. Giang Nam với tôi có đầy ắp kỷ niệm với nhau trên chiến trường Nam bộ. Còn nhiều và nhiều nhà văn đáng nói đến nữa, nhất là những người đã đem sinh mạng của mình đổi lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc”.

Khi thi sĩ Giang Nam sáng tác bài Quê hương cũng là lúc thi sĩ Hoài Vũ viết nên bài Vàm Cỏ Đông trong một đêm vượt sông ở Long An. Và cả hai bài thơ đều vượt thời gian, được người đọc các thế hệ mến mộ.

Tác phẩm kết tinh từ tấm lòng và vốn sống thực tế

Những khi trò chuyện với chúng tôi, thi sĩ Hoài Vũ ít nói về mình mà hay nhắc tới người khác, nhất là những đồng nghiệp thời văn nghệ giải phóng đã bám trụ xuyên suốt chiến trường, viết dưới mưa bom bão đạn, cống hiến nhiều tác phẩm có giá trị nhưng bây giờ ít được nói đến.

Từ kinh nghiệm bản thân ông cho thấy, khi nói tới Hoài Vũ nhiều người thường chỉ nhớ tới nhà thơ của những bài thơ tình nổi tiếng mà đầu tiên là Vàm Cỏ Đông vốn được nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc thời còn chiến tranh. Ít có bạn đọc, nhất là giới trẻ sau này biết Hoài Vũ còn là tác giả nhiều truyện ngắn và bút ký có giá trị nhân văn sâu sắc. Chẳng hạn, những truyện ngắn Người Sài Gòn, Gái thời chiến, Tiếng sáo trúc, Bông huệ trắng, Bông sứ trắng,... của Hoài Vũ một thời được nhiều người tìm đọc và chờ đợi nghe trên đài. Và hàng loạt bút ký của ông nóng bỏng hơi thở chiến trường viết về những tấm gương, đơn vị anh dũng trong chiến đấu: Đồng bằng đổ lửa, Cánh én trên Vườn Thơm, Vàm Cỏ Tây dậy sóng, Gái Lương Hoà, Nữ pháo binh thành phố, Làng hầm,...

Không cầu kỳ câu chữ, văn chương Hoài Vũ luôn mộc mạc, tự nhiên, trẻ trung, da diết và nhân hậu như chính con người của ông, dù đó là thơ tình hay truyện ngắn, ký sự viết giữa lửa đạn.Trải nghiệm thực tế đau thương và hào hùng của chiến trường đã giúp Hoài Vũ trưởng thành và viết nên những tác phẩm trung thực, sâu sắc. Ông thổ lộ: “Một điều tôi lấy làm tự hào là tất cả tác phẩm của mình đều được kết tinh từ tấm lòng và vốn sống thực tế chứ không phải bịa đặt. Đó là vốn sống của chính tôi, vốn sống của đồng đội và nhân dân ngay trên chiến trường khắc nghiệt nhưng cũng đầy tình yêu thương”.

Có điều thú vị, nếu không rõ tiểu sử Hoài Vũ thì nhiều người cứ ngỡ thi sĩ của Vàm Cỏ Đông là người Long An, vì hầu hết sáng tác của ông đều gắn với mảnh đất này. Không chỉ thời chiến mà cả thời bình Hoài Vũ vẫn gắn bó với Long An, như cái tình cháy bỏng thiết tha ông viết Đi trong hương tràm:

“Dù đi đâu dù xa cách bao lâu
Dù gió mây kia đổi hướng thay màu
Dù trái tim em không trao anh nữa
Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau
Gió Tháp Mười đã thổi, thổi rất sâu
Có nỗi thương đau có niềm hy vọng
Bầu trời thì cao, cánh đồng thì rộng
Hương tràm bên anh, mà em đi đâu?”

Thi sĩ Hoài Vũ tâm sự với chúng tôi: “Người ta nói tôi là người Long An cũng phải. Long An đã trở thành quê hương thứ hai của tôi. Ngoài Long An, tôi còn gắn bó với hai vùng đất khác là miền Đông Nam bộ và vành đai ven Sài Gòn, những nơi nuôi dưỡng tôi trưởng thành, cung cấp nguồn sáng tạo vô tận cho trang viết của tôi”!

Người xưa bảo: “Đất lành chim đậu”. Thành ngữ ấy rất đúng với đất Nam bộ đã cưu mang Hoài Vũ và nhiều thế hệ văn nghệ sĩ từ khắp nơi không ngừng về đây, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh cứu nước. Mang ơn sâu nặng đất lành này, ông chia sẻ: “Đất Nam bộ trù phú, phóng khoáng, bi tráng, dung chứa nhiều nhân tài. Văn học Nam bộ là sự hội tụ của những tấm lòng, tài năng cả nước. Nhà thơ Nguyễn Bính để lại dấu ấn Nam bộ rất sâu. Nhà văn Nguyễn Thi cả cuộc đời chiến đấu và hy sinh ở đất này. Nhà văn Nguyễn Trọng Oánh vào chiến trường Nam bộ trong chống Mỹ đã có nhiều đóng góp cho văn học kháng chiến…”!

Nếu không gắn bó bền lâu với Nam bộ thì khó có cái nhìn bao quát như thi sĩ Hoài Vũ, mảnh đất làm nên tên tuổi và sự nghiệp ông với những ký ức “Có nỗi thương đau, có niềm hy vọng” không thể nào quên!

PHAN HOÀNG
Theo SGGP

TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:



YẾU TỐ TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ ĐINH HÙNG

Đinh Hùng xuất hiện trên thi đàn Việt Nam với một vóc dáng hết sức kỳ lạ. Cái kỳ lạ của một kẻ lang thang cô độc trên cõi đời đầy bấn loạn ấy làm mê hoặc bao trái tim nhạy cảm của những người yêu thơ. Chất thơ Đinh Hùng không đi theo một lối mòn sẵn có mà chọn cho mình một con đường đi riêng để thoả sức đắm chìm vào một thế giới thơ đầy mộng mị, nếu không muốn nói là quái dị.
Nhà thơ Đinh Hùng

Trốn chạy vào cõi vô thức để ngụp lặn trong bể khổ đau, Đinh Hùng tự giam mình vào trong ngục tối của sự mặc cảm. Đinh Hùng đã bị mặc cảm giày vò tái tê từ thể xác tới linh hồn. Giữa cuộc sống xô bồ giả tạo, kiếp người bơ vơ lạc lõng không tìm thấy chỗ dựa tinh thần lẫn vật chất, cái gánh nặng áo cơm ghì sát đất khiến tâm hồn bị tổn thương và bi phẫn. Để giải thoát nỗi đau đời, Đinh Hùng trốn chạy vào trong thi ca, lấy đó làm điểm tựa để tồn tại, dầu biết rằng sự tồn tại ấy cũng chỉ là thoi thóp mà thôi. Nhưng dẫu sao thơ ca cũng là con đường thanh sạch nhất để cứu rỗi linh hồn, trong khi xác thịt chứa đầy tội lỗi bi thương.

Với một tập “Mê hồn ca”, Đinh Hùng bước vào làng Thơ mới với một hành trang rất nhẹ nhàng giản dị, nhưng lại đủ sức nặng để ám ảnh người đọc một cách dai dẳng. Sau này với tập thơ “Đường vào tình sử”, Đinh Hùng đã thực sự để lại cho đời những áng thơ bất hủ. Chịu ảnh hưởng của các nhà thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Rimbaud, Verlaine, Valéry, Mallarme… Nhất là Baudelaire nhà phù thuỷ ngôn ngữ trong thi ca Pháp, con đường thơ ca của Đinh Hùng có nhiều nét riêng. Được coi là nhà thơ Tượng Trưng trong phong trào thơ mới, thơ Đinh Hùng có đầy đủ những đặc điểm của chủ nghĩa tượng trưng. Thơ ông trau chuốt, gọt giũa, có nhiều ý hay lạ, nhiều hình ảnh và ngôn từ quái dị, yêu ma... Và Tạ Tỵ đã gọi Đinh Hùng là nhà thơ với “cơn mê trường dạ”.

Trong Thi nhân Việt Nam, tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân từng viết: “Những tư tưởng mới và nhất là ảnh hưởng văn học Pháp ngày một thấm thía (…) Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta”.(1) Trong Phong trào thơ mới, giáo sư Phan Cự Đệ viết: “Nhìn chung từ 1936 trở về sau, trường phái tượng trưng được người ta chú ý hơn cả. Tại sao đây? … Cái chính vẫn là sự gặp nhau của những tâm hồn trí thức bất mãn với xã hội, đau buồn, chán nản, u uất khi phong trào cách mạng của quần chúng bị thất bại hoặc bị đàn áp dữ dội…”.(2) Còn giáo sư Lê Đình Kỵ trong Thơ mới những bước thăng trầm lại cho rằng:“Nhưng không thể chấp nhận cuộc sống tầm thường, buồn tẻ như những người xung quanh, do đó mà cảm thấy lạc loài, bơ vơ, đơn chiếc, dù sao, đó cũng là cách quay lưng lại những chuẩn mực sống trong cái chế độ xã hội đáng ghét lúc bấy giờ”.(3) Nỗi đau, cái buồn, trạng thái cô đơn vô vọng là tâm thế chung của các nhà thơ mới Việt Nam nói riêng và các nhà thơ tượng trưng Phương Tây nói chung. Đó chính là sự gặp nhau của những tâm hồn trí thức mang nặng nỗi đau đời. Thơ Đinh Hùng cũng không nằm ngoài tâm thế ấy. Cái buồn được thú nhận và đề cao trong thơ Đinh Hùng, vì một khi nhà thơ đã rút về với cái tôi mà không còn có điểm tựa nào khác thì cảm thấy bơ vơ lạc lõng. Đinh Hùng mang tâm tư của một kẻ lữ khách lạc loài nơi quán trọ trần gian đầy bụi bặm này, phó mặc cho dòng đời luân lưu đưa đẩy, con người như không biết trôi giạt về đâu. Chàng thi sĩ trẻ tuổi bước chân vào đời như đi trong cơn ác mộng. Nhìn những dáng hình người đang lạc loài ngay trên chính quê hương mình, người thơ đã vô cùng phẫn nộ: Miệng quát hỏi có phải ngươi là bạn?/Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản/Mất tinh thần từ những thuở xa xôi/ Ta về đây lạc hết các ngươi rồi/ Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống (Bài ca man rợ).

Cảm giác sợ hãi đang đè nặng tâm can, hốt hoảng, giật mình, bơ vơ, lạc lõng, Đinh Hùng trốn chạy vào tình yêu, những mong tình yêu có thể cứu vớt linh hồn đang khắc khoải. Nhưng rồi tình yêu có phải là nơi trú ẩn an toàn không khi mà Từ khi thưa lạnh hương em,/ Ta đem phòng làm cổ mộ, thì nhà thơ càng thấm thía thời gian sinh mệnh đời người sao quá đỗi ngắn ngủi. Làm sao có thể chiến thắng được thời gian đây, làm sao có thể thay đổi được quy luật của tạo hoá đây. Thôi thì nếu không chiến thắng nó thì đành trốn chạy nó vậy, chỉ còn một giải pháp, đó là vượt thoát vào mộng ảo, mê hồn. Thi sĩ xáo trộn thời gian, xoá nhòa hiện tại, đẩy nó về quá khứ xa xăm. Chỉ có như thế, nhà thơ mới mong tìm thấy được sự sống vĩnh hằng để băng bó vết thương tâm hồn: Ta nhớ xưa: đêm thu trăng rụng tiếng gà/Trăng vĩnh viễn khóc thời gian tình tự./Mây hay gió động nỗi niềm phong vũ/Bẩy xứ Tình che lấp dáng khinh thanh (Trời ảo diệu).

Nhưng rồi vết thương ấy có lành chăng khi tâm hồn vẫn đang hằng ngày hằng giờ rỉ máu. Chỉ có cái chết mới mong hoá giải những nỗi sầu đang đè nặng trong hồn anh: Khi anh chết các Em về đây nhé/Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa/ Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ/Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ… (Cung đàn tưởng niệm)

Vì sao Đinh Hùng lại có những vần thơ sầu não như vậy. Phải chăng "Những cái tang thuở thiếu thời, và sau này là cái chết của người yêu tên Liên đã ảnh hưởng đến rất nhiều tâm tính của Đinh Hùng, nên thơ anh thường đượm vẻ ảm đạm, bi thương..." (Huyền Viêm). Không tìm thấy sự đồng điệu trong cuộc đời đầy bất trắc này, Đinh Hùng tìm về chốn địa đàng hay đi vào cổ mộ theo tiếng gọi vô thức, tâm linh. Tìm về nơi thế giới ảo mộng với một niềm tin rằng tình yêu và sự sống sẽ mãi trường tồn, bởi trong thế giới ấy khái niệm thời gian không còn có ý nghĩa: Bốn mùa trăng vào một hội chiêm bao/Trong giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ./Xa tục phố, đây bức tranh thần hoạ/Lẫn sầu vui, ai nhớ tuổi sông hồ (Tìm bóng tử thần).

Tình yêu đối với thi nhân vô cùng thiêng liêng, nó được xem như một thứ tôn giáo mà tác giả luôn tôn thờ: Ta đặt em lên ngai thờ Nữ Sắc/Mặc tay em định liệu kiếp ngày sau (Kỳ nữ). Do vậy khi phải lìa xa vì cái chết, tác giả nát tan cõi lòng và thốt lên những lời bi thiết: Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?/Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?/Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy/Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu (Gửi người dưới mộ).Những câu thơ chứa đầy nỗi u sầu, thương nhớ, đưa chúng ta vào một thế giới liêu trai ma quái, nhưng thấm đẫm tình yêu. Bài thơ bộc lộ một cảm giác cô độc đặc biệt đến bi thương. Đọc xong bài thơ Gửi người dưới mộ, chúng ta đều cảm thấy rờn rợn trong hồn. Trong thơ Đinh Hùng ta thấy có một sự ám ảnh của thế giới bên kia – cõi hư vô. Đinh Hùng hay đề cập đến cái chết trong thơ mình, có khi là cái chết của người khác: Nàng nằm mộng suốt đêm hè dưới nguyệt/ Nụ cười buồn lay động ánh trăng sao./ Xa nấm mồ, chúng ta cuồng dại hết/ Để yêu tà về khóc dưới non ca (Tìm bóng tử thần), có khi là cái chết của người mình hằng yêu dấu: Trời ơi ! Trời ơi ! Làn tử khí/Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên (Cầu hồn), cũng có khi là cái chết của chính mình: Anh bơ vơ lạc trên đường thiên cổ/ Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu./ Mất anh rồi, Các Em sẽ về đâu? (Cung đàn tưởng niệm).

Điều này không những liên quan đến nhiều chuyện tang tóc bất bình thường trong thời gian ngắn liên tục đổ xuống đầu tác giả thuở thiếu thời mà còn liên quan đến quan niệm mỹ học của các nhà thơ tượng trưng, đó là nhà thơ say mê nỗi buồn, sự đơn độc và cả cái chết. Các nhà thơ tượng trưng có thể tưởng tượng say mê cái chết, nó là cái cớ để xây dựng nên một thế giới thẩm mỹ riêng, vì theo họ cái chết cũng mang tính thẩm mỹ. Do vậy, ai đã từng đọc tác phẩm Mê hồn cađều bị ám ảnh bởi những hình ảnh ma mỵ liêu trai, hoang sơ, man dại, chết chóc, lạnh lùng của chốn trần gian lẫn chốn âm ty: Rồi ta đi khí núi bốc trên lưng/Mắt hung ác và hình dung cổ quái/Trông thấy ta cả cõi đời kinh hãi (…) Người và vật nhìn ta không dám nói/Chân lảng xa, từng cặp mắt e dè/Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe/Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả/Và ta thấy hiện nguyên hình sơn dã...( Bài ca man rợ).

Thơ Đinh Hùng luôn bị ám ảnh bởi một thế giới siêu thoát, kinh dị, đầy sự chết chóc, lạnh lẽo của chốn âm ty. Đó là thế giới của nỗi đau, niềm tuyệt vọng, sự cô đơn đang gặm nhấm xác thịt lẫn tâm hồn. Ngôn ngữ thơ đầy cảm giác, ma quái, rùng rợn… đưa người đọc phiêu diêu vào miền xa xăm huyền bí, đến những bến bờ xa lạ của cảm giác, của cõi tiềm thức, hư vô… Đinh Hùng hiểu rất rõ nỗi đau của mình, và ông tìm đến thơ tượng trưng như một sự cứu rỗi trong linh hồn vì đây là “lối thơ xoáy sâu vào chủ thể, lối thơ biểu hiện sự phản ứng đối với cuộc sống tầm thường nhỏ nhen, vị kỷ, vị lợi trở thành có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với các nhà thơ Việt Nam” (Nguyễn Hữu Hiếu).(4)

Bốn mươi tám năm ở trọ trần gian, thi sĩ Đinh Hùng đã kịp để lại cho đời hai thi phẩm lớn là “Mê Hồn ca” và “Đường vào tình sử”. Cuộc đời tuy khá ngắn ngủi nhưng ngược lại tác phẩm lại có đời sống dài hơn gấp bội phần. Đọc thơ Đinh Hùng ta nhận ra rằng trên suốt con đường thơ đầy nhọc nhằn ấy, thi sĩ miệt mài tìm kiếm lại chính mình, tìm kiếm lại cái bản ngã mà có lúc tưởng như bị nhoà lẫn vào trong bức tranh nhân sinh đầy hỗn tạp. May thay, trên con đường tìm kiếm ấy, Đinh Hùng không những tìm lại được chính cái bản lai diện mục của mình mà còn khẳng định được chỗ đứng vững chãi trong cuộc đời vô thuỷ vô chung này.

VÕ THỊ THANH TÙNG
Khoa Ngữ văn Đại học Thủ Dầu Một

Chú thích:

(1): Hoài Thanh – Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học Hà Nội.
(2): Phan Cự Đệ (1982), Phong trào thơ mới. Nxb Khoa học xã hội.
(3): Lê Đình Kỵ (1993), Thơ mới những bước thăng trầm, NXB TP. Hồ Chí Minh.
(4): Nguyễn Hữu Hiếu,Vấn đề tiếp nhận các yếu tố nghệ thuật của thơ tượng trưng phương Tây trong Thơ Mới Việt Nam 1932-1945. Trang wed: http://www.hcmussh.edu.vn.

                   Nguồn: Tạp chí Sông Trà - số 41 năm 2012


TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:



NGHĨ VỀ NHÀ THƠ PHẠM CÔNG THIỆN

Làm thế nào để hình dung về Phạm Công Thiện? Một lần tôi đã tự hỏi mình như thế. Và ngay lập tức trước mắt tôi hiện ra một cặp kính cận dày cộp và chòm tóc trắng phất phơ… Có lẽ, nếu vẽ vài nét trên giấy kiểu tốc họa thì thế như dường là đủ. Không, chưa đủ. Vậy thì nghe thêm giọng nói Nam Bộ đặc biệt của anh. Hay là thêm khuôn mặt tròn, và đôi mắt thơ ngây…
Nhà thơ Phạm Công Thiện

Nhưng tận cùng, Phạm Công Thiện là một nhà thơ và là một thiền sư - và đó là những phẩm chất rất khó hình dung, vì mỗi nhà thơ và mỗi thiền sư đều có những độc đáo riêng. Và tôi tin rằng, khi nào thân xác anh rời khỏi thế giới đời thường này, rất nhiều người sẽ gọi Phạm Công Thiện là một vị Bồ tát, một danh hiệu tôn quý trong Phật giáo và là một hạnh nguyện để chỉ một người tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác để giúp cho mọi người hiểu được thật nghĩa của vũ trụ. Trong những năm qua, rất nhiều Tăng Ni, Phật tử đã gọi nhà thơ Bùi Giáng là một vị Bồ tát, và tôi tin là sau này, Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn vinh như thế, bất chấp những đời thường bất toàn mà chúng ta đôi khi gặp nơi anh.

Thực sự, tôi đã nhìn anh như một vị Bồ tát từ những ngày tôi mới lớn, và ngay khi lần đầu đọc cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Lúc đó, tôi đang học lớp đệ tứ, hay đệ tam ở Chu Văn An, Sài Gòn. Bây giờ gọi là lớp 9 hay lớp 10. Đâu đó, khoảng giữa thập niên 1960. Dù là đọc ngấu nghiến, nhưng một ngày không đủ, và đọc một tuần cũng không đủ. Vì có những dòng tôi phải đọc đi đọc lại, không hoàn toàn vì tính bí hiểm triết lý, mà chỉ vì tính thơ mộng dị thường trong ngòi bút của anh. "Đi cho hết những đêm hoang vu trên mặt đất…". Thế đấy, tôi đã đi như thế từ bốn thập niên trước trên các trang sách của anh.

Tôi đã ngồi ở sân chùa Xá Lợi, dưới các tàng cây ngọc lan và bông sứ lần giở từng trang sách đó. Và rồi lại ngồi trong một quán cà phê cách Trường Chu Văn An vài mươi bước, ngay lối vào Ký túc xá Minh Mạng của các anh chị sinh viên lớn. Không phải chuyện ngồi đọc cho ra vẻ triết gia, mà thực sự vì có những đoạn văn trong cuốn Ý thức mới làm tôi run rẩy cả người. Từng trang một, giữa các dòng chữ của Phạm Công Thiện toát ra một hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận. Và tuy là văn xuôi, hầu hết, nhưng thi tính vẫn dày đặc kinh ngạc.

Lúc đó, tôi chưa từng gặp anh, nhưng lại có cảm giác Phạm Công Thiện phải là một cái gì có màu xanh, phải liên hệ tới màu xanh, thí dụ xanh da trời hay xanh lá cây. Không biết tại sao, nhưng trong trí óc tôi lúc đó, là một thiếu niên say mê đọc sách và cứ nghĩ tới triết gia Phạm Công Thiện là thấy hiện lên một màu xanh. Phải màu xanh mới lạnh chứ. Vì từng trang Ý thức mới... đều mang theo hơi lạnh đó. Trong đó, có hơi lạnh Đà Lạt, có sương mù Paris, có ngồi thiền trên đồi vắng, có chất vấn về triết lý với cái búa của Nietzsche, với hiện sinh Camus, và vân vân, và vân vân. Đủ thứ mà bây giờ tôi không thể nhớ hết. Cứ mở trang sách ra, là hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận lại toát ra từ các dòng chữ của anh. Bất kể lúc đó, tôi đang ngồi trong sân chùa Xá Lợi, hay vài tuần sau nữa tới la cà tại các quán cà phê trên đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi đó có khi tôi ngồi ở quán cà phê Bình Minh và có khi bước sang kế cận ngồi ở quán Hoàng Hôn, và nơi đó cứ mỗi chiều trở về đêm là đèn đường hắt xuống màu vàng mờ nhạt làm tôi cứ ngỡ mình đang ngồi giữa Paris đọc sách.

Mới biết, văn chương mạnh như thế. Sau này, nhiều thập niên sau, khoảng đầu thập niên 1990, được cơ duyên gặp nhà thơ Phạm Công Thiện tại quận Cam, California, tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao thời mới lớn mình lại cứ hình dung anh ra một màu xanh. Nhớ lại mới ngạc nhiên. Đúng ra, nếu phải liên kết với màu sắc, nơi anh phải là một màu trắng. Tóc trắng một chòm, kính trắng dày cộp, đôi mắt cực kỳ ngây thơ, khuôn mặt bầu, lại thường mặc áo trắng hay màu sáng. Và toàn thân Phạm Công Thiện toát ra cả một màu trắng hồn nhiên, thơ ngây. Nhưng tới tuổi trung niên rồi, tôi không còn bận tâm chuyện màu sắc nữa, dù là người hay chữ, hay mực, hay giấy. Thêm nữa, khi đọc lại anh, tôi không còn nhiều rung động mạnh mẽ như thời mới lớn, dù là lòng tôn kính anh vẫn không mờ nhạt trong tôi.

Nếu phải giải thích, có lẽ cảm giác màu trắng sau này nhiều phần tôi có cũng từ một bài thơ của Phạm Công Thiện được nhạc sĩ Lê Uyên Phương phổ nhạc. Trong bài thơ, tôi nhớ có những câu dị thường như:

… Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây…

Và nhớ nhất là mấy chữ:

… Tôi đứng trên đồi mây trổ bông…

Thực sự, gọi Phạm Công Thiện bằng "anh" là điều không phải lẽ đối với tôi, trên nguyên tắc. Vì tôi đã từng trực tiếp nghe nhiều vị danh tăng gọi Phạm Công Thiện bằng danh xưng "thầy" rất là tôn kính, trong những vị gọi như thế có những Thượng tọa hiện là tác giả và dịch giả nhiều sách về Phật học. Dễ hiểu, Phạm Công Thiện đã từng dạy ở Đại học Vạn Hạnh, nơi đào tạo nhiều thế hệ Tăng Ni và trí thức Phật giáo.

Đứng về mặt đời thường, lý ra tôi cũng phải gọi anh là thầy. Vì thực tế, Phạm Công Thiện còn là thầy của vợ tôi - nàng kể lại rằng trong thập niên 1980 vẫn thường mỗi tuần sang chùa Liên Hoa, trên đường Bixby, thị xã Garden Grove, quận Cam, để nghe thầy Thiện giảng kinh Kim Cang.

"Không hiểu gì cả, nhưng ông Phạm Công Thiện dạy hay hơn mấy thầy khác nhiều, kể cả mấy thầy ở Đại học Vạn Hạnh hồi xưa". Đó là lời nàng kể, khi còn nhắc là năm 1974, nàng đã từng học miệt mài ở Đại học Vạn Hạnh…

Tại sao không hiểu gì hết, mà lại thấy hay? Tôi nghĩ, chỉ có kinh Phật và thơ mới thế thôi.

Như thế, đúng ra tôi phải gọi nhà thơ Phạm Công Thiện bằng thầy. Nhưng cơ duyên lại là, lòng anh Thiện rất mực thoải mái, không nghi lễ. Và tôi lại là bạn thân của các nhà thơ Lê Giang Trần, Phạm Việt Cường… những người thân tình và thường uống rượu với anh. Nói là uống rượu nghe có vẻ trần gian lắm, nhưng phải nhìn thấy Phạm Công Thiện mới thấy là hoàn toàn không có gì gọi là trần gian nữa. Tất cả thế gian quanh anh đều thoạt hiện ra như thơ, như văn, như nhạc, như họa… Và cả đôi khi tôi ghé nhà Lê Giang Trần ở trong một khu mobile home chật chội, u tối, tại Santa Ana và gặp anh Phạm Công Thiện đang ngồi trong nhà Trần với chai rượu trên bàn. Tất cả thế gian đều như mộng, như huyễn, như sương rơi, như điện chớp… Sự hiện diện của anh Phạm Công Thiện như dường để nhắc tới tính vô thường đó.

Khi tôi tới quận Cam năm 1990, anh Phạm Công Thiện đã tạm ngưng các lớp Phật học ở chùa Liên Hoa mấy năm rồi, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn cơ may gặp nhà thơ dị thường này. Và nếu sau này có ai muốn biết về các chuyện đời thường của Phạm Công Thiện, tôi nghĩ rằng nhà thơ Lê Giang Trần có thể kể lại trên cả ngàn trang sách, vì cứ hễ anh Thiện về quận Cam thì chỉ nghe về ở nhà Lê Giang Trần, một nhà thơ cũng thơ mộng lạ lùng và dị thường. Còn thì, khi nghe tin anh đi Úc, khi nghe nói anh lên ngụ ở chùa Diệu Pháp ở Los Angeles, và khi thì nghe đủ thứ địa danh trên địa cầu. Nói thế, không có nghĩa Trần là bạn đời thường của anh Thiện. Thực sự, nhà thơ Lê Giang Trần nhìn nhà thơ Phạm Công Thiện như một vị Bồ tát. Một hóa thân, không thể khác hơn được, trong mắt của Trần.

Người ta không thể hình dung hết những tôn kính mà nhiều người dành cho Phạm Công Thiện. Bất kể là anh đã từng sống rất đời thường, hệt như bao nhiêu người khác giữa phố chợ trần gian. Bất kể là anh cũng viết báo lung tung, cũng một thời tranh luận từ trước 1975 tại Sài Gòn, và rồi lại viết báo tranh luận tại Los Angeles thời 1980 sau này. Và bất kể là anh uống rượu cũng tưng bừng, cũng mấy lần vợ con, cũng thích hút thuốc lá, cũng nhiều thứ rất trần gian… Nên thấy, trong những người tôn kính Phạm Công Thiện có nhiều vị sư, có nhiều nhà thơ, và tôi tin là không thể đếm hết.

Không phải những người đó tôn kính Phạm Công Thiện chỉ vì anh từng là giáo sư Đại học Vạn Hạnh (nơi này có cả trăm giáo sư chứ), hay vì anh làm thơ hay (trước và sau anh cũng có nhiều nhà thơ xuất sắc chứ), hay vì anh đã hùng biện để bảo vệ Phật giáo (đâu có mấy ai nhớ anh đã gây lộn với ai, và về đề tài gì), hay vì anh có thể vừa mới rời một quán nhậu nơi đường Westminster là bước vào ngôi chùa đường Bixby giảng kinh Kim Cang mà vẫn dạy hay hơn tất cả các ông sư trên đời này (có thể, nhưng chi tiết này cần phải kiểm chứng, vì các vị giảng sư chưa chắc đã đồng ý là có ai giảng kinh này hay hơn họ), hay vì anh mỗi lần vào thư viện Mỹ là mượn ra cùng một lúc 30 cuốn về đọc tốc độ còn mau hơn các thiếu niên Sài Gòn đọc truyện võ hiệp Kim Dung (tôi tin có người còn đọc nhanh hơn), và vân vân…

Có thể vì vai trò của Phạm Công Thiện trong sự phát triển Phật giáo cũng lớn lao? Thực ra, có nhiều vị đã đóng góp cho Phật giáo nhiều hơn anh nhiều. Thí dụ, như cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, HT.Minh Châu, HT.Trí Thủ, HT.Thanh Từ, HT.Nhất Hạnh, TT.Tuệ Sỹ, GS.Lê Mạnh Thát… Thực sự, Phạm Công Thiện không viết nhiều về Phật giáo.

Còn nói về các chức vụ chính thức thì Phạm Công Thiện cũng không hơn nhiều vị khác, dù anh từng là "nguyên Giáo sư Triết học Tây phương Viện Đại học Toulouse, Pháp quốc; nguyên Giáo sư Phật giáo Viện College of Buddhist Studies, Los Angeles, Hoa Kỳ; nguyên Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1966-1968; nguyên Khoa trưởng Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1968-1970; sáng lập viên và nguyên chủ trương biên tập tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh, 1966-1970" (theo phần chú thích trong bài "Hai vị thiền sư," Phạm Công Thiện viết tại California ngày 18.10.1988 về TT.Tuệ Sỹ và TT.Trí Siêu, vị sau này thường dùng tên là GS.Lê Mạnh Thát. Báo Nguồn Sống số 16-17, 1989, San Jose, California).

Vậy mà, cũng như nhà thơ Lê Giang Trần nói trên, tôi tin Phạm Công Thiện phải là một kiểu hóa thân Bồ tát. Nếu Tây Tạng có các hóa thân Đạt lai Lạt ma, Ban thiền Lạt ma, Karmapa, Rinpoche, vân vân… thì Việt Nam mình ngay trong thời này cũng có các hóa thân Bồ tát như các nhà thơ Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… Bạn không tin? Hãy hỏi các vị sư Sài Gòn ở thế hệ trung niên trở lên, như dường cũng có nhiều vị sư chia sẻ niềm tin như thế.

Còn nói theo kiểu bây giờ, thì Phạm Công Thiện đã xuất hiện trong Phật giáo một cách "rất là ấn tượng." Chuyện Phạm Công Thiện trở thành nhà sư Thích Nguyên Tánh thì cũng có nhiều người biết, và vẫn được truyền tụng hoài. Nhưng nơi đây, để nghe tận nguồn, chúng ta hãy nghe nhà thơ Quách Tấn kể lại, trong "Hồi ký về Thượng tọa Thích Trí Thủ" (http://www.phatviet.com/vanhoc/vh008.htm), khi giới thiệu anh Thiện với Thượng tọa Trí Thủ (lúc giữ chức Giám viện Phật học viện Hải Đức, nơi thi sĩ Quách Tấn dạy các Tăng Ni môn Quốc văn), trích:

Khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện bị khủng hoảng tinh thần, ở Mỹ Tho ra Nha Trang an dưỡng. Lên chơi chùa Hải Đức, Thiện ước được sống trong cảnh u tịch trong ít lâu để lấy lại sức khỏe. Tôi liền đến xin Thượng tọa, và tỏ thật rằng Thiện là một thiên tài và là người Cơ Đốc giáo, mọi người trong chùa tỏ ý không bằng lòng. Thượng tọa cười:

"Không hề gì, có bác Quách bảo đảm".

Nhưng để "đề phòng", Thượng tọa cho dọn một căn phòng dưới xưởng làm hương để Thiện ở, trưa chiều lên chùa ăn cơm.

Được nơi ăn chốn ở vừa ý, Thiện bảo tôi:

"Để đền ơn ông, tôi xin hẹn trong sáu tháng sẽ đọc và hiểu được kinh chữ Hán".

Tôi không dám tin, nhưng cũng không dám ngờ.

Ở Trại Thủy, cả ngày Thiện nằm đọc sách. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Thiện và Thượng tọa Trí Thủ. Một hôm Thượng tọa bảo tôi:

"Anh chàng có đạo tâm".

Tôi cười thầm trong bụng: "Đạo Thiên Chúa hay đạo Phật".

Ba tháng sau, tôi lên Hải Đức, không thấy Thiện nơi xưởng hương. Hỏi người làm hương trong xưởng cho biết rằng Thượng tọa Trí Thủ đem anh lên ở nơi cốc của Thượng tọa hơn một tháng rồi.

Tôi bèn leo dốc lên cốc: một nhà sư trẻ đang ngồi xếp bằng ngay ngắn, mắt lim dim trên chiếc ghế dài nơi cốc. Nhìn kỹ thì là Phạm Công Thiện! Rõ là một nhà sư 100 phần trăm. Thiện ngồi yên, tôi lẳng lặng đi vào cốc. Thượng tọa Trí Thủ mừng rỡ, muốn gọi Thiện. Tôi "xin đừng". Sau mấy câu hàn ôn như thường lệ, Thượng tọa nói:

"Thiện quy y với tôi rồi, tôi đặt cho pháp danh là Nguyên Tánh".

Tôi không tỏ ý tán thành cũng không tỏ ý phản đối. Đối với Thiện quy y cũng thế mà không quy y vẫn thế.

Mấy tháng sau - tháng 9 năm 1964. Tôi lên Hải Đức một lần nữa. Cốc đóng - người trong chùa cho biết Thượng tọa cùng Thiện vào Sài Gòn, còn lâu mới về. Tôi cảm thấy bùi ngùi như nhớ nhung, như thương tiếc.

Tôi ngẫu chiếm một tuyệt:

Lịu địu
Áo giũ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.

Sau nghe tin Thiện dạy học ở Đại học Vạn Hạnh, rồi đi Mỹ, đi Pháp. Còn Thượng tọa Thích Trí Thủ thì trụ trì chùa Già Lam, rồi được phong Hòa thượng, thỉnh thoảng mới về Nha Trang thăm chùa cũ và nghỉ ngơi. Thiện thì từ ngày từ giã Nha Trang, tôi không còn gặp lại…" .

Bây giờ Phạm Công Thiện không viết nhiều như ngày xưa nữa. Những cuốn sách gần đây đa số là viết về Phật A Di Đà và Bồ tát Quan Thế Âm. Từ lâu, anh cũng không làm thơ nhiều nữa. Những tác phẩm thời trẻ của anh, khoảng hơn hai mươi cuốn, còn được quần chúng nhớ đặc biệt là vài cuốn, như: Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, Tổ sư Thiền tông (1964), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965), Ngày sanh của rắn (1967)… Cuốn được nhớ tên nhất tại hải ngoại của Phạm Công Thiện, có lẽ là cuốn Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988)…

Nhưng đêm hoang vu của anh vẫn chưa hết, cho nên vẫn thấy anh đi liên tục. Để theo dõi bước đi một đoạn đời của anh, hãy trích một chút sau đây từ cuốn Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng của Phạm Công Thiện, xuất bản 1994 tại Los Angeles, từ Lời nói đầu:

"Quyển sách này được viết chậm rãi thong dong từ trên 10 năm nay, từ năm 1983 tại Los Angeles và tại những vùng phụ cận Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc; đến năm 1983, qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần 20 năm; từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên 11 năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles; sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc châu, tôi vẫn trở lại thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình…".

Bây giờ Phạm Công Thiện vẫn còn đi. Và đôi khi vẫn còn viết - như một nghiệp tiền định của anh.

Nếu bạn nhớ rằng Phạm Công Thiện sinh năm 1941 thì mới kinh ngạc, khi biết rằng anh in cuốn Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma năm 1964, nghĩa là khi mới 23 tuổi. Nơi đây, chúng ta không nói chuyện cuốn sách anh viết đã có giúp gì cho ai về mặt giác ngộ hay không (chuyện này, khó có thước đo), nhưng chỉ nói về đề tài để khảo sát, suy nghĩ và viết xuống thì đã là một điều hết sức dị thường. Tôi từng đọc rằng khi anh còn ở tuổi vị thành niên, anh đã soạn một cuốn Tự điển Anh ngữ tinh âm, nhưng vì tôi chưa bao giờ đọc cuốn này cho nên không dám bàn. Nhưng ở tuổi 23, mà anh viết sách Thiền tông thì phải có một tâm hồn rất mực thơ mộng, một khát khao trí tuệ rất mực mãnh liệt, dù là, đối với Thiền tông, đúng hay sai và mê hay ngộ cũng là chuyện rất mực khó dò…

Nhưng vì sao một người đời thường lại được cả các Tăng Ni tôn kính? Mà người đời thường này, anh Phạm Công Thiện, lại không hề biết cách kiếm tiền… Tôi nghĩ, nhiều phần là trong các kiếp trước, Phạm Công Thiện đã từng là thầy, từng là bậc tôn túc của các vị Tăng Ni kia, và của nhiều cư sĩ đời thường như tôi…

Và tôi tin rằng, khi Thiền sư Thi sĩ Phạm Công Thiện từ trần, chắc chắn sẽ có rất nhiều người gọi anh là Bồ tát, một danh hiệu rất mực tôn kính trong nhà Phật, chỉ đứng sau danh hiệu Đức Phật. Tại sao như thế? Tôi không thể trả lời chính xác. Nhưng nhà thơ Bùi Giáng đã được tôn xưng là Bồ tát, và tôi tin, chắc chắn rằng Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn xưng như thế. Thêm nữa, kinh Pháp Hoa cũng viết rằng tất cả mọi người đều là Phật - và bây giờ nhiều người trong chúng ta đã quen thuộc với cách Phật giáo Tây Tạng gọi ngài Đạt lai Lạt ma là Bồ tát Quan Thế Âm, gọi ngài Ban thiền Lạt ma là Phật A Di Đà hóa thân…

Để trả lời cho bớt vẻ thần bí hơn, có lẽ nên nói rằng nhà thơ Phạm Công Thiện đã đánh thức được nơi rất nhiều người niềm say đắm với cuộc đời. Bất kể là nhân loại thường trực đối diện với biết bao nhiêu là hố thẳm và hoang vu, chính niềm say đắm này đã và đang dẫn chúng ta đi qua biết bao nhiêu là ngọn đồi mây trắng…

PHAN TẤN HẢI
(Cư sĩ NGUYÊN GIÁC)

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2018

BIỂU TƯỢNG GIÓ TRONG BƯỚC GIÓ TRUYỀN KỲ CỦA PHAN HOÀNG

Dựa trên nền tảng quan niệm của văn hóa nhân loại về gió, với chủ đích mượn gió để gửi gắm thông điệp nghệ thuật, trong trường ca Bước gió truyền kỳ Phan Hoàng đã xây dựng biểu tượng gió theo cách riêng của trái tim nghệ sĩ đầy mẫn cảm với một trí óc tưởng tượng bay bổng, phong phú. Gió trở thành nơi phát lộ những bí ẩn của vô thức, của hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái vô tận. Gió gợi cho người đọc suy ngẫm về thân phận cuộc đời của mỗi con người qua tầng tầng lớp lớp thế hệ…
Nhà thơ Phan Hoàng

Xuyên suốt trường ca Bước gió truyền kỳ(1) của Phan Hoàng là biểu tượng gióGió được coi như là trục vận hành chính, là tâm điểm phát sáng nhiều thông điệp. Gió hiện diện trong tác phẩm với vai trò nối kết năm phân khúc rõ rệt: Những ngọn gió vô danh/ Gió tiếp sức ước mơ/ Bước gió truyền kỳ/ Gió dựng thành lũy biên cương/ Những cơn vượt thoát sinh tồn vĩ đại. Ứng với mỗi bước gió là một chủ đề lớn hàm chứa những chủ đề nhỏ hơn. Đặt trong tổng thể của tác phẩm, tất cả cùng hòa âm - những âm thanh của tưởng tượng vang lên như một bè hợp xướng đa thanh, lắng nghe sẽ thấy dàn hợp âm vang lên lúc êm ái, dịu dàng, lúc hào hùng, dữ dội, lúc trầm lắng, suy tư, lúc xót xa, đau đớn, lúc tha thiết tự hào…  đó chính là những cung bậc cảm xúc của tác giả cũng như của bất cứ người con đất Việt nào khi ngược dòng thời gian, sống cùng những sự kiện lịch sử của dân tộc, dõi theo từng bước đi của sinh thể Mẹ - Tổ quốc từ thuở ông cha mang gươm đi mở cõi (Huỳnh Văn Nghệ) cho đến hôm nay.

Trong văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới biểu tượng gió có ý nghĩa khác nhau. Kinh Coran lấy các cơn gió làm sứ giả của Chúa Trời, tương đương với các thiên thần. Thần của Chúa Trời bay lượn trên mặt nước nguyên thủy được gọi là gió. Trong hệ biểu tượng Hindu, gió (vâyu) là khí vũ trụ và là lời Thượng đế; gió là chúa tể của lĩnh vực tế vi, trung gian giữa Trời và Đất. Theo các truyền thuyết Hindu về nguồn gốc vũ trụ trong Luật của Manu, gió được sinh ra từ thần linh và gió sinh ra từ ánh sáng. Thần linh được kích thích bởi ước muốn sáng tạo đã sinh ra không gian. Từ vận động của cái không trung này, đã sinh ra gió. Gió chứa đựng tất cả các hương trong sạch, mãnh liệt, có đặc tính của xúc giác. Trong các truyền thuyết của Kinh Thánh, những cơn gió là hơi thở của Chúa Trời. Hơi thở của Chúa đã đưa trật tự vào hỗn mang nguyên thủy, hơi thở đó đã đem lại sinh khí cho người đầu tiên. Những cơn gió cũng là những công cụ của quyền lực thần thánh; chúng truyền sinh khí, trừng phạt, giáo huấn, chúng là những dấu hiệu và cũng như các thiên thần, chúng mang những thông điệp. Chúng là một dạng biểu hiện của thần linh, muốn truyền đạt những cảm xúc của mình(2).

Dựa trên nền tảng quan niệm của văn hóa nhân loại về biểu tượng gió, với chủ đích mượn gió để gửi gắm thông điệp nghệ thuật, trong Bước gió truyền kỳ Phan Hoàng đã xây dựng biểu tượng gió theo cách riêng của trái tim nghệ sĩ đầy mẫn cảm với một trí óc tưởng tượng bay bổng, phong phú. Gió trở thành nơi phát lộ những bí ẩn của vô thức, của hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái vô tận. Gió gợi cho người đọc suy ngẫm về cuộc đời của mỗi người Việt Nam qua tầng tầng lớp lớp thế hệ. Và thân phận mỗi cá thể vô danh ấy gắn liền với mỗi bước đi nhọc nhằn của mảnh đất quê hương hình chữ S - nơi mỗi chúng ta chôn nhau cắt rốn, cất tiếng khóc chào đời. Chạm đến tình cảm thiêng liêng ấy nên gió trong tác phẩm của Phan Hoàng đã lay động tâm thức người đọc ở vùng thăm thẳm nhất. Thổi qua nhiều miền tối sáng suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nhưng không ồn ào mà rất khiêm nhường, điềm tĩnh, những Bước gió truyền kỳ đúng như tên gọi của nó đưa người đọc vào một hành trình kỳ lạ, vừa thực vừa mơ để khám phá những vẻ đẹp của văn hóa, khí phách và ý chí của dân tộc với nhiều cung bậc cảm xúc thẩm mỹ khác nhau.

Trong cảm thức của tác giả, gió là một biểu tượng luôn luôn động, luôn luôn biến hình hài, đổi trạng thái và mỗi bước gió là một sự tiến triển của đất trời, con người và vạn vật sinh linh…  

Mở đầu trường ca gió là tâm điểm hội tụ sức mạnh hồn thiêng dân tộc. Những ngọn gió vô danh gọi những linh hồn vô danh quần tụ, họ là những chàng trai và những cô gái mang trong mình Ước mơ căng tràn ngực gió thanh xuân” Họ đã sống từ bao đời trước: Xác hóa mây bay hồn về đất mẹ/… Người từ ngàn năm người quên tên tuổi...” Nhưng chính những con người giản dị và bình tâm  ấy là những con người đã làm nên đất nước (Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm).

Gió được thổi hồn và hiện diện như một sinh thể sống, gió là người và người là gió, gió quấn quýt, chia sẻ vui buồn cùng con người, gió mở đường bay, gió đồng hành cùng người từ những bước chập chững đầu đời, từ tuổi thơ hồn nhiên khát vọng truy tìm, khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Với nhiều thủ pháp tu từ được sử dụng linh hoạt như dùng xen kẽ liên tục câu dài/ ngắn, câu khẳng định/phủ định, câu kể, câu cảm thán, câu hỏi…, âm hưởng chậm rãi, trầm lắng của khúc ca đưa mỗi chúng ta trở về với tuổi thơ của mỗi người và tuổi thơ của dân tộc. Đó là thời khởi sinh trong trẻo hồn nhiên, đầy ắp kỷ niệm ngây thơ êm đềm nhưng cũng đã biết “khóc người lớn cười/ cười người lớn khóc. Từ thuở mới khai sinh lập địa, thuở hồng hoang mới biết hát đồng dao, người Việt Nam đã biết phân biệt phải/ trái, đúng/ sai, nuôi khát vọng, mơ ước, biết suy tư trăn trở tìm đường để hướng đến những giá trị sống cao đẹp: bay đường nào con người bớt khổ đau?/ bay đường nào con người bớt nghèo đói?/ bay đường nào con người bớt phản trắc?/ bay đường nào con người tin được nhau? ”.  
   
Có thể nói bốn tiểu khúc trong phần Gió tiếp sức ước mơ: Gió mở đường bay/ Đồng giao nghịch gió/ Cuộc trò chuyện giữa gió và núi/ Gió tiếp sức ước mơ là những khúc đoạn vừa bay bổng, lãng mạn vừa giàu chất triết luận. Đáng chú ý là Cuộc trò chuyện giữa gió và núi được hình dung trong giấc mơ của người kể chuyện: Nhiều đêm trong mơ ngược dòng ấu thơ đuổi bắt sao trời, ta trộm nghe núi mở lòng với gió.

Các nhà phân tâm học cho rằng về ý nghĩa giấc mơ là sự thỏa mãn một ước vọng.  Theo S. Freud, ước vọng là yếu tố chính tạo nên giấc mơ, ước vọng bị dồn nén được thỏa mãn một cách tượng trưng và “trá hình” trong giấc mơ. Mọi giấc mơ là sự thực hiện tưởng tượng hay biểu tượng của ước muốn. Giấc mơ “nghe núi mở lòng với gió” của Phan Hoàng là một giấc mơ đẹp, lạ. Giấc mơ mang theo hình hài địa lý của Tổ quốc, có “Biển Đông, có đồng bằng, có con đường xuyên sơn ngoằn ngoèo”… giấc mơ tái hiện lịch sử bi hùng “một thời đội sấm đội chớp mở đường” của cha ông… Phải chăng thông qua giấc mơ về Cuộc trò chuyện giữa gió và núi tác giả trường ca Bước gió truyền kỳ muốn góp thêm tiếng nói khẳng định một giá trị thuộc về truyền thống văn hóa của những con người được nuôi dưỡng từ cái nôi của nền văn minh lúa nước trên dải đất hình chữ S: dẫu trải qua bao dâu bể thăng trầm và biến thiên của lịch sử, người Việt Nam luôn sống thuần phác, nhân hậu, bao dung, phóng khoáng,  luôn mong muốn “bắc yêu thương những nhịp cầu đồng dao!…” và “lấy cây rừng làm bút/ lấy đá núi làm nghiên, lấy nước biển làm mực, đề thơ lên thạch trụ cao vút chín tầng xanh…”. Đó là giấc mơ thấm đẫm khát vọng hòa bình và tự do, tinh thần ấy là sợi dây bền chặt “nối ngàn xưa cho đến mai sau”.

Khúc thứ hai cùng tên tác phẩm: Bước gió truyền kỳ - đây là khúc trọng yếu của thiên trường ca. Với những thức nhận sâu sắc về văn hóa, lịch sử dân tộc, tác giả đã tái hiện bức tranh hoành tráng về quá trình bảo vệ và khẩn hoang mở rộng bờ cõi của cha ông qua bốn tiểu khúc: Bước gió truyền kỳ/ Gió khẩn hoang/ Gió xuôi chín khúc sông rồng/ Tây Nam mùa gió chướng. Âm hưởng hào sảng, tha thiết tự hào bao trùm khúc ca. Câu thơ ngắn, dài, biến ảo linh hoạt, gợi hình ảnh;  nhịp điệu nhanh, dồn, mạnh mẽ và hối thúc. Biện pháp điệp từ, ngữ được sử dụng một cách triệt để và đắc địa. Quá khứ lịch sử dân tộc với những bước chân huyền thoại thuở hồng hoang trở về rõ mồn một sau từng câu chữ…

Như sự đặt để của số phận, dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc phải đối mặt với nhiều cuộc chiến tranh nhất để mở cõi và giữ nước. Trong kết tinh của đất và nước có rất nhiều máu, mồ hôi và nước mắt: “máu/ máu/ máu/ mở cõi/ máu/ máu/ máu/ giữ nước… lớp lớp người/ tay cuốc tay cày/ lớp lớp người/ tay chèo tay lưới/ chém cá tràng kình/ mắt xua mây xám biển Đông/ lưng bóng nắng/ mồ hôi lạnh/ ngực dằn cơn ho cơn sốt…/ chân ngăn từng dòng nước khách lũ/ vật vã/ kiên trì/ tự lực/ khẩn hoang”… âm hưởng của lời ca nghe như có tiếng nấc, như có tiếng khóc, xót xa nhưng không hề bi lụy… Hiện lên trước mắt người đọc là trùng trùng lớp lớp những con người bé nhỏ, vô danh nhưng dũng cảm gánh trên vai một sứ mệnh lớn lao mà lịch sử dân tộc giao phó. Cuộc thiên di về phương Nam nhọc nhằn, gian khó nhưng những con người lao động chỉ có tay cuốc, tay cày, tay chèo, tay lưới cùng với ý chí kiên cường, đức nhẫn nại, hy sinh của người dân nước Việt. Họ đã làm nên truyền thống, làm nên lịch sử cho xứ sở này - truyền thống ấy mãi mãi âm vang bước gió truyền kỳ, tạc khắc trong hiên ngang dáng núi, bao dung tình sông

Xét trong chỉnh thể của tác phẩm, như bản nhạc vang ngân, khi tiểu khúc Bước gió truyền kỳ và Gió khẩn hoang với âm hưởng hào hùng, bi tráng “cuồn cuộn chuyển động sắc màu vũ trụ” tạm lắng xuống, thì tiểu khúc Gió xuôi chín khúc sông rồng vang lên với âm hưởng chậm rãi khoan thai, có những nốt lặng lắng sâu nhiều suy tư về cuộc sống “phía sau nỗi đau trận mạc”.

Đất nước hòa bình, con người lại trở về với những giấc mơ hoa đời thường mà do chiến tranh ngăn trở nên đã không thể thực hiện. Hạnh phúc đáng nói nhất là “tình yêu lứa đôi không còn bão lửa cắt chia”. Tâm điểm của bức tranh hòa bình là hình ảnh quấn quýt hòa trộn nhau thắm thiết, nồng nàn của đôi lứa yêu nhau được Phan Hoàng phác họa sinh động mang sắc màu “nhục thể lành mạnh” (F.Engels): “Thịt da nhiệt đới/ hừng hực ngực lửa/ hừng hực đùi hương/ bềnh bồng suối tóc/ bồng bềnh môi trầm/ bềnh bồng mông núi/ bồng bềnh lạch hoa/ bồng em lốc xoáy/… em làm vợ ta làm chồng/ yêu nhau thì cứ bềnh bồng bập bênh”. Ở đây  khát vọng hướng đến những giá trị nhân bản, nhân văn nhất của con người được thành thực trải lòng. Kiến tạo văn bản theo một sơ đồ chủ ý trộn lẫn giữa truyền thống và hiện đại nên có lẽ vì vậy trường ca Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng đã không bị sa vào khuôn mẫu xơ cứng, đơn điệu của kiểu viết trường ca theo “cảm hứng sử thi” đầy sắc màu “lý tưởng” tạo khoảng cách quá xa vời giữa con người trong tác phẩm và con người của cuộc sống đời thường.

Thế giới nghệ thuật vốn bao giờ cũng là thế giới trung gian giữa thực tế và mơ mộng. Nhiều khi thế giới thực không thỏa mãn được ước vọng của người đời, thế giới mơ tưởng có thể thực hiện được những ước vọng đó. Và ở khúc đoạn này, Phan Hoàng đã thành công khi mơ một “giấc mơ sinh trưng” lãng mạn nhưng cũng rất chân thực với cách diễn đạt tưởng chừng tưng tửng, dí dỏm, nhưng ám gợi sâu sắc tâm thức người tiếp nhận.

Phần thứ ba mang tên Gió dựng thành lũy biên cương gồm ba tiểu khúc: Linh hồn gió/ Gió cõng hương qua núi đồi/ Gió dựng thành lũy biên cương.

Chiến tranh dẫu đã đi qua, nhưng trong mỗi ngày của cuộc sống hòa bình những ám ảnh, đau thương mất mát vẫn nhức nhối khôn nguôi, “cái ác mang mặt nạ hữu nghị viển vông” vẫn lởn vởn. Đêm đêm linh hồn của những chàng trai, cô gái “hồn phách tinh anh mỉm cười bước ra chuyện trò cùng với gió (…) bao linh hồn trẻ hóa gió hiên ngangcanh giữ giấc ngủ bình yên đất mẹ”. Đến đây, gió trở thành biểu tượng của sức mạnh tâm linh huyền diệu, thần kỳ. Sức mạnh ấy được khởi nguồn từ tình yêu đất nước của lớp lớp thế hệ đi trước, họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân vì bình yên của mảnh đất này, vì “cuộc sống những đứa trẻ không còn mồ côi đói khát…/ mùa trăng mật dâng hiến lứa đôi/ mùa sinh nở dâng tặng tiếng khóc những ngôi sao hy vọng...”. Trên nền âm hưởng trầm lắng, man mác buồn, hoài niệm, tiếc thương người đã khuất, nổi bật hình tượng Gió cõng hương qua núi đồi thấm đẫm sắc màu kỳ ảo: “Dường như có bóng ai lướt nhanh trong màn sương đục/ bóng của hôm qua bóng của hôm nay hay bóng của mai sau? gió vẫn miệt mài cõng hương qua núi đồi một thời trận mạc/ gió nói gì với những chiếc bóng lang thang chưa yên nghỉ mộ phần?”. Trước thế giới tâm linh thiêng liêng, những dấu hỏi như găm vào lòng người sống hôm nay bao ngẫm ngợi, suy tư, khắc khoải về thân phận con người…

Với độ lùi thời gian, điềm tĩnh nhìn lại những “bước gió” bi hùng của lịch sử dân tộc, tác giả trường ca xác quyết một sự thật: “không dân tộc nào/ không đất nước nào/ hiếm hoi thế hệ bình yên/ nối nhau quẫy đạp bóng đêm/ đứng lên” như dân tộc Việt Nam; và “không dân tộc nào/ không đất nước nào/ oằn vai/ gánh/ mười bốn cuộc chia ly không hẹn ngày về/ không dám bày tỏ nỗi niềm nhớ thương/ không biết cha con đối đầu/ không ngờ anh em bắn nhau/ máu đỏ oán sông/ xương trắng hờn than núi/ bao tinh hoa hóa thành cát bụi/ bao bà mẹ tim ngừng đập vẫn mở mắt đợi con/ bao người vợ úp mặt chờ chồng lửa lòng đông cứng!”. Chiến tranh là máu và nước mắt, là cái chết, là chia ly, tan tác, chia lìa. Người dân đất Việt đâu có mong muốn chiến tranh, nhưng “cực chẳng đã” buộc phải đứng lên để “giành lại từng dấu chân giao chỉ/ giành lại từng viên đá cuội in bóng chim lạc chim hồng/ giành lại từng hạt cát mang hình đảo chìm đảo nổi/ giành lại từng tia sáng cánh cò cánh vạc/ giành lại từng tiếng khóc bình yên tao nôi” . Và dòng hào khí kết tinh từ tinh hoa của lớp lớp người mãi trường tồn, vút bay cao “hóa thân bước gió truyền kỳ, cùng những vì sao nhấp nháy nhấp nhổm nụ cười” để làm nên Những cơn vượt thoát sinh tồn vĩ đại của dân tộc.

Nếu quan điểm của tư duy lý luận hiện đại cho rằng chức năng cơ bản của biểu tượng là sự phát hiện hiện sinh của con người cho chính mình thì ở Bước gió truyền kỳ biểu tượng gió giúp người đọc nhận ra chính bản thân mình từ những phát hiện về phẩm chất của dân tộc từ góc nhìn nhân văn nhất về lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt. Xoay xung quanh biểu tượng này chúng ta có thể suy ngẫm để khám phá nhiều ý nghĩa về thực tại cuộc sống: đó là mối quan hệ ràng buộc và những ứng xử mang giá trị văn hóa sâu sắc giữa cá nhân và cộng đồng, cộng đồng và cá nhân… Sử dụng biểu tượng gió như một thủ pháp nghệ thuật để thể hiện những ẩn dụ cảm xúc từ trìu mến, yêu thương thiết tha nhất đến giận dữ, uất nghẹn, sôi sục nhất, tác giả Phan Hoàng đã thành công trong lối dẫn dụ người đọc đi vào thế giới cảm xúc cùng những suy tư về văn hóa, lịch sử và vận mệnh của dân tộc một cách tự nhiên trên tinh thần “tự cảm hóa”. Với cách xử lý nghệ thuật khéo léo, tinh tế, sáng tạo, trường ca Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng đã vượt qua giới hạn của lối tư duy tụng ca về những vấn đề đại tự sự một cách đơn giản, sáo rỗng, vô hồn, thiếu thuyết phục mà bạn đọc vẫn còn bắt gặp đó đây trong sáng tác hôm nay. Và đó chính là một trong những nguyên nhân sâu xa, cơ bản nhất khiến tác phẩm này hàm ẩn nhiều thông điệp nghệ thuật, tiếp tục “vẫy gọi” bạn đọc đồng sáng tạo.

Thái Nguyên, tháng 3.2016
TS. CAO THỊ HỒNG

Chú thích:

 (1) Phan Hoàng, Bước gió truyền kỳ, Nxb. Hội Nhà văn, 2016.
 (2) Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, 1997, tr.363.     

Theo DIỄN ĐÀN VĂN NGHỆ VIỆT NAM 6/2016


BÀI LIÊN QUAN:



BÀI MỚI ĐĂNG

NGUYỄN PHAN QUẾ MAI - HÃY NÓI VỀ CUỘC ĐỜI

Xe vút đi trên những con đường cao tốc, còn tôi thì ngồi đó, lặng người trong giai điệu trầm bổng của Khúc Thụy Du. Mùa hạ California nở bun...