Thứ Năm, 21 tháng 3, 2019

THƠ MAI VĂN PHẤN - CUỐNG NHAU VÀ CHÙM RỄ


Trước sân chầu vũ trụ
Ông vua và ngọn cỏ cùng ngồi
Rabindranath Tagore

Đọc Mai Văn Phấn tốt nhất là không nên tìm ý, đó là các tập mờ, tâm thái ta thế nào, ký ức ta thế nào, thơ Mai Văn Phấn sẽ chia sẻ với ta thế ấy. Nó có năng lực biến đổi, làm bất yên những hằng thường vô vị và là chỗ cho ý thức thẩm mỹ bám níu.
Nhà thơ Mai Văn Phấn

Đọc xong 400 trang sách, ước khoảng hơn 8.000 câu thơ toàn những mộng mị, cuống nhau, nước, lá và hoa; tôi cũng thành mộng mị, không rõ mình là Mai Văn Phấn biến ra hay ngược lại. Chỉ biết, cần phải cãi lại Phạm Xuân Nguyên rằng, vâng, rất có thể Thánh kinh và các khải thị do Chúa truyền dạy nhất thành bất biến là Ngôi Lời (uyển ngữ/ kỵ húy ngôi Trời?) nhưng thơ Phấn trần thế hơn nhiều, nó chỉ mong được làm cái việc rất cụ thể và xưa cũ, rất xưa cũ: Làm cuống nhau nuôi phôi bào, bào thai và làm rễ cỏ. Ít nhất, tôi có thể dẫn ra 5 câu thơ nói về hai vật thể tối quan trọng này. Nó hiện diện cả trong câu thơ cổ điển, lẫn siêu thực, thậm chí là trong hậu hiện đại nhưng chưa bao giờ nó ngừng tận tụy với tượng trưng như tượng trưng đã xuyên suốt thơ Phấn. Tôi đồng ý với Phạm Xuân Nguyên, “Mai Văn Phấn vật vã lo âu trước sự tha hóa của nhân sinh hiện thời” nhưng xin thêm, Phấn đã nhiều lần vong thân hòng tìm kiếm lại cho nhân sinh cái cuống nhau tinh thần và trên hành trình ấy, ông đã gặp cỏ không chỉ với tư cách ẩn dụ. Có nhẽ không vô tình mà bài Tản mạn về cỏ lại được đặt ở ngay trang đầu của tuyển tập:

Ghé môi vào miệng thời gian
Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non

Nói chung, vũ trụ với trăng sao đất đai với nước và cỏ thật gần gụi với con người, là một phần khó có thể tách rời của con người là đặc trưng lớn nhất của thế giới nghệ thuật Mai Văn Phấn. Thực ra, nhân hóa là phép tu từ không của riêng ai.Với cư dân trồng lúa nước, nó đã thành một thi pháp: Lúa thì con gái, lúa nghén đòng, lúa đứng cái…nhưng bản thân nó không thể sản sinh ra câu thơ trong bài Sau mùa gặtĐất đai - người đàn ông nằm ngủ.Vâng, anh ta đang ngủ và giấc ngủ trễ tràng gợi ra một đêm hoan lạc, gợi ra sự mệt mỏi sau một quá trình phục vụ cuộc sinh nở vĩ đại của đất đai hay của chính vợ anh ta? Ở bài Mười nén nhang ở Ngã ba Đồng Lộc chúng ta còn thấy cả một sự cỏ cây hóa, trời đất hóa cơ thể con người:

Tháng ngày gương lược về đâu
Chân trời để xõa một mầu cỏ non
(…) Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn

Thế giới nghệ thuật ấy cũng cắt nghĩa, vì sao viết về việc mình sinh ra, Phấn lại viết:

Đặt con lên đất
Lòng sông đau xé thân đêm

Thậm chí, viết về việc vợ sinh, ông cũng mở đầu:

Mặt đất vừa qua phút lâm bồn

và sau mẹ tròn con vuông, không phải “cửa sinh” mà là:

Chân trời phía ấy vừa se lại

Cố nhiên, dù với sự “vong thân” nhưng bằng vào liên tưởng gián tiếp, nỗi đau sinh nở của mẹ vẫn là cấp độ hiểu thứ nhất, rồi mới đến cấp độ của nỗi đau – cấp độ thiên nhiên. Cũng vậy, với độ phồn sinh của bầu vú phi phàm:

Vòm ngực thả trái cây sắp rụng
Lũ cuốn, đá lở, sạt đồi
Con thú giật tung giây trói
Nghiền không gian thành sữa thơm dưỡng chất
Bầu vú cương lên căng mọng
Nuôi nấng trẻ thơ trên khắp thế gian

Cho phép chúng ta liên tưởng đến cấp độ cuối cùng, ấy là cuống nhau tinh thần của nhân loại?

Có một bí ẩn trong gia tài thơ Phấn, ấy là tính dục chỉ có thể cảm thấy chứ không nhìn thấy. Dấu hiệu để cảm nhận có lẽ là đòi hỏi công khai như một điều kiện tiên quyết của tình yêu nhục cảm, ấy là sự thanh sạch như thiên nhiên trong ái ân được trở lại nhiều lần trong thơ ông. Và từ đó những đứa trẻ của tương lai sẽ ra đời; sẽ cứu vãn sự già nua bệnh tật xơ vữa của nhân sinh mà Phấn luôn luôn khắc khoải:

Tiếng em rồi tiếng con cười
Rộng thêm căn phòng ta ở
Anh hồi sinh tuổi ngây thơ

mà Phấn luôn khát vọng:

Con đang khai hoa đậu quả
Ngự trên ngực mẹ ngực cha

Cùng với những đứa trẻ được sinh ra trong thanh sạch, hồn nhiên như cây cỏ; cũng cần một điều kiện nữa, một sự đi bước nữa của văn minh nhân loại, ấy là văn minh tâm học mới được hình thành như một giả thuyết nhưng đã hằng thường trong thế giới nghệ thuật Mai Văn Phấn:

Đã hé mở cánh cửa nền văn minh tâm học, những linh hồn tâm hồn có đủ lương năng, lương tri rời thể xác tìm nhau. Vượt gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng, trái tim hiền lành rung động các vì sao.
Giữa thiên nhiên ngỡ trong lòng mẹ, giây phút bình yên cho ta thêm lặng lẽ, tạm biệt những sắc nhọn tinh khôn để cảm nhận mình đẹp như bào thai, mới như phôi thai

Đó chính là một không gian tinh thần, nó sẽ giãn ra để nhường chỗ cho tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp:

Muôn năm con người. Muôn năm thiên nhiên

Tôi tin chắc đó là cuống nhau tinh thần của nhân loại, chẳng những nó cho phép hình dung một tương lai sáng sủa mà còn khả dĩ chữa lành những sang chấn của loài người sau thế kỷ đầy thù hận.
Dù sao thì thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn cũng đẹp và ít nhất, nó cho phép Phấn tả việc giao hoan, tả sự sinh thành thật sống động nhưng thanh thoát và sang cả, như bài Giáng sinh và Bài ca buổi sớm. Hai câu này trích từ bài sau:

Từng giọt mát lành thấm nhuần trong đất
Tươi từ môi anh đến gót chân em

Mai Văn Phấn chọn vào tuyển tập hai trường ca: Người cùng thời và Hình đám cỏ chưa kể hai bài thơ dài: Những bông hoa mùa thu và Cửa Mẫu. Trong các trả lời phỏng vấn, Mai Văn Phấn nói hành trình cách tân thơ là quá trình vùng thoát khỏi bãi lầy của những trường phái nghệ thuật. Các dấu vết vùng quẫy còn khá nhiều trong Người cùng thời nhưng chính nó làm nên thành công của trường ca. Ở đây có một nghịch lý, cả hai trường ca của Phấn đều không có nhân vật trữ tình vốn được coi là xương sống của loại hình này; ở bài thơ dài Cửa Mẫu thì có nhưng Mẫu lại là nhân vật tượng trưng nên chỉ thấp thoáng ở giá đồng chầu văn chứ không hiện diện. Không biết chuyên gia trường ca là nhà thơ Đỗ Quyên sẽ nói sao về điều này, nhưng tôi trộm nghĩ, chính nhờ không có cái trồi lên át giọng nên ta có thể nghe thấu niềm khắc khoải đến ngột ngạt của nhà thơ trước sự suy thoái của nhân tính, của môi trường được giấu rất kỹ:

Và cánh đồng nín lặng qua đêm

Vâng, làm sao có thể nói rõ với con người về thế kỷ anh ta vừa sống có rất nhiều thô sơ nhầm lẫn. Ở đây thì nhân danh cái mới để đốt đền thu chuông giữ mõ, làm chiến tranh, làm chiến tranh nhân danh bảo vệ nhân quyền, làm chiến tranh nhân danh sắc tộc và tôn giáo – chiến tranh lâu dài đến mức làm vương mùi thuốc súng trong phòng máy lạnh của hôm nay; ở kia thì nặc danh như có mặt quỷ nấp sau mặt người để rồi:

Mặt quỷ thì run mặt người thì buồn

Trường ca cho tôi một khái luận: Trong thực trạng xói mòn nhân tính, cần sự dũng cảm hơn là đầu óc thông minh. Dũng cảm và trầm tĩnh trường kỳ thậm chí là hạt nhân của cuộc chiến chống xói mòn nhân tính. Bởi vì trẻ hóa, hồn nhiên lại chính là quá trình lột xác: Giọng nói rất gần/ Dưới bình minh con hãy lột xác! (Cửa Mẫu) Đó là một quyết tâm đau đớn mà không phải không có nỗi phân vân:

Muốn dừng lại bên đường
Nằm lên cỏ
Trời cao mong leo lên cây
Nhìn xuống tiếc nuối cát
Thèm trộn vào cát
Giây phút phân vân anh nằm bất động
Mặc sương sớm ùa đến
Sóng mặn và nắng ùa đến
Kéo căng anh cỗ xe ngựa phanh thây
(Hình đám cỏ)

Ở Người cùng thời cuộc chiến còn ác liệt hơn. Đau đớn nhất là phải nhìn quá khứ như một nỗi đau và phải đốt nó lên, như Phấn trong lời đề từ cho trường ca đã viết: Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/ Nhận ra mình là hòn than cháy dở đêm qua. Và dẫu biết con đường phía trước là nhọc nhằn và hết sức hiểm nguy mà không thể khác, không có con đường nào khác:

Người cùng thời nhìn rõ đường đi nhờ những nỗi đau hắt sáng sau lưng, hắt sáng gương mặt người đằm thắm…
Quyền sở hữu ở bên ngoài Thiện - Ác. Ấy là điều những cuộc chiến tranh học được, để chính trị là cái nôi đạo đức cho cái thiện sinh ra…
…Hạt giống để dành được gieo vãi. Ta cũng gieo vãi vầng trán ta vào chân mây hy vọng. Như tháng ba ra đồng trong tiếng sấm. Bùn đất dưới chân làm ta tươi tốt. Xin học cách kết hạt của mùa màng trong mỗi nguồn cơn

Vâng, trong cái hỗn độn (hậu hiện đại) của sự cấu trúc lại còn đậm đặc trong chương VII, có tên là Mail cho em thi thoảng người đọc lại nhặt được những hạt bụi lấp lánh: …KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU BỖNG GIỌT NÀY THẤY GIỌT KIA LÀ MẸ TRÊN VẦNG TRÁN MÊNH MÔNG…Xin lưu ý rằng, trong một thi cảnh khác, Mai Văn Phấn gọi những hạt bụi là mẹ của vạn vật.

Và như thế, hành trình trở về của Mai Văn Phấn là bộ đôi song bước. Ở bình diện thứ nhất, quá trình vùng thoát khỏi những bãi lầy của các trường phái nghệ thuật để trở về với truyền thống, với cổ điển. Cố nhiên, cái truyền thống bây giờ đã khác và về điểm này thì Phạm Xuân Nguyên có lý. Và Nguyên diễn đạt rất hay: “Cái truyền thống đã ngấm chất hiện đại (…) Giống như ta mang giọng của làng quê đi khắp năm châu bốn biển, đã nói nhiều thứ tiếng, khi trở lại làng giọng ta nghe như không đổi mà thực ra là đã đổi đến tưởng như không đổi.” Trong khúc thứ IX của Cửa Mẫu, lời thơ như được chép từ một giá đồng nào đó tại phủ Giầy:

trống chiêng bát bửu
mở hội long đình
múa hát cao xanh
công đồng tứ phủ

Ở bình diện thứ hai, bình diện nội dung, sự trở về với bản thể hồn nhiên, trở về với bản lai diện mục của nhân sinh diễn ra âm thầm nhưng quyết liệt hơn nhiều. Trong tuyển thơ, Mai Văn Phấn nhiều lần làm lễ thanh tẩy; ông có hẳn một bài riêng, bài Tắm đầu năm được viết trang trọng như một nghi lễ. Nhưng đột ngột ông về hẳn với cội nguồn thờ Mẫu của văn hóa Việt và chính ở đây, quá trình lột xác (hay thanh tẩy hay tắm gội) được diễn ra trong nhạc cảm chầu văn hầu đồng và chính nó như được tương tác bởi tâm linh để thành đa bội nghệ thuật:

Hoa quả
Lửa đèn
Âm dương chén nước
Như trườn qua cơn chạng vạng
Rút dần cơ thể qua lớp vỏ bọc
Con hớp những giọt sương
Đống vỏ bọc xám xịt chất cao
Đã xa tầm tay với
Đoàn người dìu nhau bấy bớt
Cuối bình minh

Suy cho cùng, “bãi lầy trường phái”là cách nói khiêm nhường của kẻ đã qua cầu, chứ “bốn mươi năm ấy có biết bao nỗi niềm” cả phấn hứng, hạnh phúc lẫn đắng cay cô độc. Đây là thời kỳ Phấn tự cử mình, tự bỏ kinh phí đi thi Olempic thơ nhân loại và trên hành trình ấy, không ít lần lá cờ (thơ) Việt Nam đã được kéo lên. Xin chúc mừng. Nhưng chúc mừng nồng nhiệt hơn là sự trở về với cội nguồn. Ở đây, ở tận cùng của cội nguồn, ông đã gặp văn minh tâm học mà hạt nhân của nó là tâm linh, là cái mà nhân loại đang dò dẫm bước tới.

Xin dành những dòng cuối cho thơ lẻ Mai Văn Phấn từng neo đậu trong ký ức tôi. Giống như truyện ngắn, thơ lẻ là những lát cắt của cảm xúc, nó không có chỗ cho che chắn rào đón; nó là “bầu trời cần mái che.”

Nhưng ở đây có một lỗ thủng của lý thuyết trở về, nó làm nên nghịch lý cần bàn thảo.
Chùm bài Tản mạn về cỏ, Trương Chi, Lơ lửng, Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc và có thể kể thêm Chiếc lá, Em và biển, Đà Lạt thì thầm viết trước 1995 có được cái trong vắt của Đường thi nhưng cũng thấp thoáng tượng trưng:

Trăng gầy mòn đến mày ngài
Thuyền ta qua nổi đêm dài này không

và siêu thực:

Ghé môi vào miệng thời gian
Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non

Nhưng ngay cả thời trong trẻo ấy, Phấn đã cảm nhận được thảm họa tha hóa của văn minh. Đây là câu kết của bài Không đề I:

Gọi tìm tôi thuở dại khờ
Về thương tôi của bây giờ tinh khôn

Chùm bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Đúng vậy, Tắm đầu năm, Anh tôi, Quay theo mái nhà …tác giả vẫn trung thành với siêu thực và hậu hiện đại nhưng…vẫn hay. Nếu siêu thực đã hay thì còn cần gì phải trở về? Tôi không hy vọng thuyết phục các bạn, ở đây xin tạm đưa ra một giả thuyết. Tượng trưng và siêu thực chưa bao giờ là dòng chủ lưu ở xứ sở này, nhưng ngay từ xa xưa, nó đã có trong phép bút của tiền nhân chúng ta. Nhân vật “khách” trong bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ được hiểu như là nhà thơ vừa gặp một bóng ma, bóng ma ấy cao thước sáu và để lại dư âm mùi tử khí. Thì trong các truyện ngắn của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ma nhiều hơn. Và ở Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chẳng nhan nhản bút pháp tượng trưng đó ư?

Vả lại, tôi tin nhà nghiên cứu Nguyễn Quân: “Mở đầu là vĩ nhân, còn lại là thể loại.” Khi xoay triết luận theo chiều khác, chúng ta có “mở đầu là vĩ nhân, còn lại là trào lưu”, xoay nữa, chúng ta sẽ được hệ quả “mọi trào lưu khi lên đến đỉnh, đến hay thì đều gặp nhau.” Tôi không nói Mai Văn Phấn là vĩ nhân, tôi muốn nói trong các trào lưu mà Phấn dấn thân, ông đều đi đến tận cùng và vì vậy đều để lại thành tựu. Thơ Mai Văn Phấn cũng do đó mà phong phú, đa dạng.

Đặc biệt là các tập Hôm sau, Và đột nhiên gió thổi. Ấy là khi Phấn còn múa bút dưới ngôi sao chổi siêu thực và hậu hiện đại. Có nhiều bài lâm vào trạng thái bụi thiên hà, tắc tị và bí hiểm; nhưng cũng có nhiều bài vụt sáng. Tôi từng viết: Sinh thời, nhà văn Sao Mai nói: “Thơ có 4 cấp độ: từ, ý, khí, thế. Như Chế Lan Viên đã thoát khỏi từ, giầu ý tứ, khí kém nhưng thế nhiều bài đã đến.” Như Mai Văn Phấn đã không còn phải loay hoay với vần điệu, tu từ và thật thú vị, thoát được là tự do. Cảm giác tự do ở lối nói tung tẩy, nói như không ngụ ý gì, như bất chợt. Cũng ở tâm thức ngột ngạt dị ứng với những cũ kỹ ẩm mốc, những modern hot đến hời hợt, đến vô tình mà nhặng xị. Mai Văn Phấn hiện đại mà không có đồng minh hiện đại, chút cổ điển tinh tế chỉ còn sót lại ở nhạc cảm toàn bài cũng bị thói đọc thơ cổ điển lướt qua mất; ông đành âm thầm đơn độc nhưng bạo liệt với khát vọng cách tân mình. Đọc Mai Văn Phấn tốt nhất là không nên tìm ý, đó là các tập mờ, tâm thái ta thế nào, ký ức ta thế nào, thơ Mai Văn Phấn sẽ chia sẻ với ta thế ấy. Nó có năng lực biến đổi, làm bất yên những hằng thường vô vị và là chỗ cho ý thức thẩm mỹ bám níu. Có bài đã đạt đến khí, như Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, đọc xong lạnh đến gai người mà không rõ vì đâu…

VĂN CHINH
Theo NVTPHCM

TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:



Thứ Tư, 20 tháng 3, 2019

“HÀ HƯƠNG PHONG NGUYỆT” – TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM?

Đó là câu hỏi mà bấy lâu nay các nhà nghiên cứu, giới học giả tranh cãi nảy lửa. Tuy nhiên, chưa ai có cơ hội đọc trọn vẹn tác phẩm đã làm hao tổn nhiều giấy mực nhất của văn chương quốc ngữ Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỷ XX.

Giữa tháng 6-2018 khi bộ “Hà Hương phong nguyệt” được coi là trọn vẹn nhất (tính đến thời điểm này) công bố sau gần 100 năm “tuyệt tích giang hồ”, cuộc tranh cãi xuất hiện thêm nhiều ý kiến mới mẻ.

Từ cuốn sách bán chạy đến cái án “dâm thư”

“Hà Hương phong nguyệt” là tác phẩm đầu tay của nhà văn “khét tiếng” Lê Hoằng Mưu. Tác phẩm lần đầu ra mắt công chúng dưới dạng feuilleton (truyện đăng nhiều kỳ) trên báo “Nông cổ mín đàm” vào ngày 20-7-1912 với nhan đề “Truyện nàng Hà Hương”.

Truyện đăng đều đặn đến số báo ngày 29-5-1915 thì ngưng không rõ lý do dù nội dung vẫn chưa kết thúc. Do được độc giả yêu thích, năm 1914, Lê Hoằng Mưu mạnh dạn tập hợp in thành sách lấy tên mới là “Hà Hương phong nguyệt truyện” gồm 6 tập.

Lý do Lê Hoằng Mưu viết truyện này được ông nói rõ trong lời tựa: “Đồng bang hằng đọc truyện Tào diễn nghĩa, thông hiểu tích xưa, chẳng phải là chẳng ích chẳng vui. Nhưng mà coi bấy nhiêu đó hoài, lẽ khi cũng mỏi mắt đọc cang qua, nhàm tai nghe binh cách chớ?

Xét vậy nên tôi đặt bộ “Hà Hương phong nguyệt” nầy ra, thật là truyện đặt theo việc tình người đời, chẳng mượn tích ngoại phang gio diễn, để cho đồng bang cơn rảnh mua vui, lúc buồn xem tiêu khiển”.

Tác phẩm kể về cuộc đời của nàng Hà Hương – một cô gái phóng túng, đa tình và mưu mô. Các nhà nghiên cứu đánh giá có lẽ trong thơ văn Việt Nam cùng thời và trước đó, chưa từng thấy nhân vật nữ nào táo bạo trong chuyện ái tình như Hà Hương.

Những ham muốn gần gũi trần tục, những lời ve vãn bướm ong với chú Xã, với Ái Nghĩa, những chi tiết miêu tả chuyện ái ân một cách trực diện của Hà Hương được trình bày dày đặc trong tác phẩm. Mà lạ hơn nữa, trong những cuộc tình thoáng qua ấy, Hà Hương bao giờ cũng nắm trọn vai trò chủ động trong khi hình tượng người phụ nữ khi đó luôn gắn liền với tứ đức, tam tòng.
Bộ “Hà Hương phong nguyệt” trở lại trọn vẹn sau gần 100 năm thất lạc đã làm sáng tỏ nhiều tranh cãi.

Lý giải về lý do Lê Hoằng Mưu được giới văn chương bấy giờ tán tụng là “có sách bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Thúy, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh cho rằng, có thể xem “Hà Hương phong nguyệt” là một trong những tác phẩm khởi đầu cho văn học đại chúng Việt Nam.

Bên cạnh sự táo bạo, mới mẻ của cốt truyện, lộ trình đến với độc giả của cuốn sách này là một lộ trình vô cùng hiệu quả về mặt thương mại: đăng báo trước thu hút một lượng độc giả trung thành cho tác phẩm, sau đó in sách. Việc này cũng giống như nhiều tác phẩm đại chúng bây giờ ra mắt độc giả trên mạng Internet trước, có được lượng người hâm mộ hùng hậu rồi mới in sách như một cách đảm bảo nguồn thu và khuếch trương tên tuổi.

Nhưng hơn 10 năm sau, cuốn sách gây nên cuộc bút chiến dữ dội. Theo nhà thơ Lê Minh Quốc, cuộc bút chiến nổ ra từ bài báo “Dâm thơ” đăng trên tờ “Công luận báo” năm 1923 của Nguyễn Háo Đàng. Sau đó, nhiều nhà báo vào cuộc. Họ cho rằng tác phẩm “làm cho phong hoá nước nhà trở nên suy đồi, tội viết sách phong tình rất đê tiện rồi ấn hành mà rải bán trong dân gian gợi cái tính xác thịt của loài rời gia đình, tội làm cho dân trong nước trở nên đê tiện hèn yếu”.

Vậy “Hà Hương phong nguyệt” có bị kết án oan? Đọc lại các tình tiết mây mưa bị quy là làm suy đồi phong hóa, nhà thơ Lê Minh Quốc nhận thấy tác giả miêu tả rất ý nhị bằng thơ văn chứ không hề thô tục. Theo ông, “dâm thư” chỉ là cái cớ để người ta đả kích, mạt sát tác phẩm này. Bởi khi quan niệm khắt khe của Nho giáo về tình yêu nam nữ vẫn ăn sâu, người ta không thể chấp nhận Hà Hương – một nhân vật phản diện, biểu tượng diễn ngôn tính dục quá mới mẻ mà Lê Hoằng Mưu xây dựng thành nhân vật chính.

TS Võ Văn Nhơn phân tích: “Kiểu nhân vật biểu tượng cho sự cám dỗ của sắc dục này chưa hề có trong văn học truyền thống. Tác phẩm bị lên án vì đã chuyển tải một quan niệm không truyền thống về tình yêu, luân lý trong thời điểm nhân dân Nam Bộ cần cổ súy cho đạo đức truyền thống, cho tình yêu nước để có sức mạnh chiến đấu với giặc ngoại xâm hơn là những tình cảm cá nhân ngang trái, buông thả”. Dưới áp lực dư luận, tác phẩm bị chính quyền thực dân Pháp tịch thu và tiêu hủy. Do vậy, thế hệ sau này khó tiếp xúc với văn bản gốc.

Hành trình đi tìm “Hà Hương phong nguyệt” của TS Võ Văn Nhơn bắt đầu cách đây 10 năm khi ông tình cờ đọc nhận định của nhà nghiên cứu Bằng Giang trong công trình “Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930”: “Còn tiểu thuyết (không nói truyện ngắn) thì cũng chỉ bắt đầu với “Hà Hương phong nguyệt” của Lê Hoằng Mưu đăng báo năm 1912 và in thành sách năm 1915”.

Hiểu rõ tầm quan trọng và vị trí của “Hà Hương phong nguyệt” trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, ông và cộng sự đi khắp thư viện ở Việt Nam để truy tìm. Nhưng họ chỉ tìm được tập 3. Riêng các số báo “Nông cổ mín đàm” năm 1913, 1914 lại không được lưu trữ đầy đủ nên việc tập hợp trọn vẹn tác phẩm trở nên khó khăn. Phải đến năm 2014, họ mới tìm được 6 tập ở Thư viện Quốc gia Pháp.

Quá trình dày công sưu tầm, chỉnh lý, sắp xếp “Hà Hương phong nguyệt” cho nguyên hình, nguyên dạng của TS Võ Văn Nhơn mất khá nhiều thời gian. Vì bản in báo có nhiều phần thất lạc nên trong cuốn “Hà Hương phong nguyệt” công bố lần này, phần 1 và phần 3 là bản in trên báo, phần 2 phải lấy từ bản in sách. Bản in báo có lối hành văn hiện đại hơn so với bản in sách (do chiều theo thị hiếu của độc giả lúc đó nên khi tập hợp phần đã in feuilleton trên báo để in sách, Lê Hoằng Mưu đã chuốt gọt theo hướng giảm số câu văn xuôi, tăng số câu văn vần).

Tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam?

Trước đây, quyển tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên được xem là “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách xuất bản năm 1925. Nhưng với các phát hiện gần đây, vấn đề này đã được xem xét lại. Trong công trình “Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930”, nhà nghiên cứu Bằng Giang từng khẳng định: “Từ truyện “Thầy Lazaro Phiền” (1887) của Nguyễn Trọng Quản đến “Hoàng Tố Anh hàm oan” (1910) của Trần Thiên Trung, “Phan yên ngoại sử - Tiết phụ gian truân” (1910) của Trương Duy Toản phải mất hết 23 năm.

Số trang của hai tác phẩm này cộng lại cũng chỉ được có 103. Chỉ mới đáng kể là truyện ngắn chứ chưa phải là tiểu thuyết. Đến năm 1912, “Truyện nàng Hà Hương” của Lê Hoằng Mưu đăng trên “Nông cổ mín đàm” từ 20-7-1912 mới đáng kể là tiểu thuyết”.

Nghiên cứu, sưu tầm và chỉnh lý tác phẩm này, TS Võ Văn Nhơn phân tích: “Hiện thực phản ánh trong tác phẩm khá rộng lớn, có thể xem đây là một xã hội Nam Bộ ở đầu thế kỷ XX được thu nhỏ. Trong tác phẩm có các gia đình giàu lẫn những gia cảnh nghèo hèn; có cảnh Sài Gòn đô hội phồn hoa bên cạnh cảnh nghèo hèn thôn dã; có cảnh tòa xử án, trạng sư biện hộ...

“Hà Hương phong nguyệt” ra đời vào thập niên thứ hai của thế kỷ XX, vì thế vẫn còn mang những dấu vết của giai đoạn giao thời. Ghi là Roman Fantastique (tiểu thuyết) nhưng câu văn của tác phẩm rất gần với thơ, với văn biền ngẫu. Nhưng với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý khá đặc sắc, tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu có những bước đột phá vượt bậc so với các nhà văn cùng thời, xứng đáng là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Nam Bộ, của Việt Nam”.

Nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy không đồng tình với nhận định này. Ông cho rằng: “Nếu phân tích hai chữ tiểu thuyết thì rõ. Tiểu là nhỏ, bé và thuyết là nói hay kể một câu chuyện. Bất kể ngắn hay dài chúng đều là tiểu thuyết cả. Do đó, trong “Đại Nam quốc âm tự vị”, Huỳnh Tịnh Của định nghĩa tiểu thuyết là “chuyện nói chơi, sách nói về chuyện ngoài, chuyện đặt để”.

Và dĩ nhiên hoàn toàn không có chữ “truyện dài” trong các định nghĩa ấy. Với cách hiểu nầy, tôi nghĩ rằng, “Hà Hương phong nguyệt” không phải là tiểu thuyết đầu tiên”. Ông đề nghị, nếu tác phẩm có tái bản, thì nên ghi “Hà Hương phong nguyệt, tiểu thuyết dài, nhiều tình tiết đầu tiên của Việt Nam”.

Nhà thơ Lê Minh Quốc cũng cùng quan điểm. Theo ông, xét về cách hành văn với phong cách biền ngẫu của “Hà Hương phong nguyệt”, câu chữ du dương, nhịp nhàng vần điệu thì gọi chính xác nhất vẫn là truyện thơ, một sự nối dài của truyện thơ nôm khuyết danh “Lâm tuyền kỳ ngộ”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Chàng Chuối tân truyện”… Có khác chăng là hình thức biểu hiện của từng câu thơ không xuống dòng.

Một khi đã gọi tiểu thuyết hiện đại, trước hết phải căn cứ vào cách hành văn, diễn đạt các con chữ. Đó chính là yếu tố quan trọng nhất. Các tiêu chí: “Với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật khá đặc sắc”, chỉ là yếu tố phụ, là cần nhưng vẫn chưa đủ.

TS Hà Thanh Vân cho rằng việc tác phẩm này có phải là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam hay không không quan trọng. Cái quan trọng là giá trị mà nó đem lại cho nền văn học sử Việt Nam. Sẽ không có gì tranh cãi nếu coi đây là tiểu thuyết quốc ngữ về nữ quyền đầu tiên của nước ta.

Việc công bố trọn vẹn tác phẩm này là một sự kiện quan trọng, góp phần làm rõ hơn diện mạo, hành trình ban đầu hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại ở Nam Bộ và Việt Nam nói chung.

MAI QUỲNH NGA
Nguồn: VNCA


NHÀ VĂN TRANG THẾ HY: MỘT LẦN GHÉ QUÁN BÊN ĐƯỜNG…

Bài thơ được phổ nhạc với tên Quán bên đường của anh sao mọi người vẫn tưởng là của Bình Nguyên Lộc? Bởi vì Bình Nguyên Lộc là người đăng bài đó lên báo mà! Báo Vui Sống, khoảng 1960 gì đó phải không? Không, 1959 chớ. Mỗi lần nghe hát bài này sao tôi đều thấy muốn khóc. Lạ thiệt…
Nhà văn Trang Thế Hy

Tôi vốn không ưa thuốc lá, không ưa cả người hút thuốc lá. Cũng bởi mình là thầy thuốc, lại làm việc trong chương trình phòng chống tác hại thuốc lá. Nhưng lần này tôi bỗng thấy mê một người hút thuốc lá. Mê thiệt. Thấy cái cách ông ngậm điếu thuốc chếch qua một bên khóe miệng, thấy cái cách ông khum khum đôi bàn tay ấp ủ ngọn lửa như một bông hoa tự dưng thấy lòng xao xuyến. Một người gần 90 tuổi, nghiện thuốc lá từ ngày còn trẻ, ngồi bên cạnh mình, nhẹ nhàng rút một điếu, nâng niu đưa lên miệng, rồi ân cần xoay xoay chiếc hộp quẹt trong tay chuẩn bị bật lửa… có cái gì đó như một nghi lễ tôn giáo, khiến tôi chỉ biết ngồi im, lặng ngắm, không dám hó hé. Tôi biết thứ thuốc lá ông hút chẳng phải nhẹ nhàng gì, nhưng người ta đặt tên dịu dàng với bao bì thanh mảnh dễ thương chẳng qua để người hút tưởng nó nhẹ, nó không nhiều chất độc vậy thôi. Người đàn ông đó, người đàn ông hút thuốc lá mê hoặc được tôi đó chính là nhà văn Trang Thế Hy, buổi trưa nắng gắt ngày 10.11.2009 tại nhà riêng của ông ở dưới chân cầu Rạch Miễu, Bến Tre mà tôi có dịp lần đầu đến thăm sau nhiều lần dự định mà không thành.

Bác sĩ Trần Đức Dũng người quen của gia đình ông đưa tôi đến, theo yêu cầu của tôi, không báo trước. Tôi vẫn nghe từ lâu ông là một nhà văn khó tánh. Nổi tiếng trên văn đàn từ những năm 50 của thế kỷ trước, được nhiều người ngưỡng mộ, đang sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, ông lặng lẽ từ biệt Sài Gòn phồn hoa đô hội, tự mình “đi chỗ khác chơi”. Nhà thơ Thanh Thảo thì dùng một câu ca dao Nam bộ để viết về ông: “Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng, về sông ăn cá, về đồng ăn cua…”. Còn nhà văn Nguyên Ngọc thì đã gọi ông một cách trân trọng: “người hiền của văn học Nam bộ”. Còn ông tự coi mình chỉ là “người tình thoáng chốc của văn chương”. Rời bỏ cuộc chơi, lánh về ẩn cư chốn quê nhà, “rửa tay gác kiếm”. Thế nhưng hình như người tình của ông thì chẳng bao giờ chịu rời bỏ ông cứ y như người tình của Tchekov ngày nào…

Tôi muốn được đến thăm ông như một độc giả mê văn ông từ thời Mỹ Thơ - tên một truyện ngắn của ông - trên báo Nhân Loại hơn nửa thế kỷ trước. Dĩ nhiên sau này ông còn có nhiều truyện ngắn hay hơn, sâu sắc hơn,  nhưng với tôi,  Mỹ Thơ vẫn mãi đọng lại với tiếng còi xe lửa xình xịch Sài Gòn - Mỹ Tho thời đó. Tôi cũng mê thơ ông, đặc biệt bài thơ có tựa là Đắng và Ngọt, đã được đổi thành Cuộc đời khi đăng báo mà sau này trở thành Quán bên đường, do Phạm Duy phổ nhạc. Từ lâu, mỗi lần nghe Quán bên đường tôi lại thấy rưng rưng, như muốn khóc. Cái người có một bài thơ làm mình muốn khóc đó bây giờ ra sao thôi thúc tôi tìm đến thăm ông. Thơ kể chuyện thôi mà, có tân hình thức có hậu hiện đại gì đâu, cớ sao mình mới nghe đã thuộc, đã nhớ, đã thổn thức, đã rưng rưng?

Bác sĩ Dũng hỏi tôi cần mua gì làm quà cho bác Tư không? Tôi bảo thôi. Không cần đâu. Không sao. Tôi giục. Dũng mượn cái nón bảo hiểm, vèo chở tôi đi ngược về phía chân cầu Rạch Miễu, và dừng lại ở một con hẻm nhỏ, bên cạnh một con rạch. Phía bên kia đường là khu dưỡng lão với những ngôi nhà ngói đỏ au. Bác Tư Trang Thế Hy đang sống với vợ chồng cô con gái trong một căn nhà nhỏ bé, thấp lè tè, yên ả giữa mảnh vườn xanh um, dừa chuối bưởi bòng. Đã mấy lần tôi định tìm thăm ông, một người bạn văn của cậu tôi, ông Nguiễn Ngu Í, thời Bách Khoa, để được nhìn ngắm ông, hỏi han sức khỏe ông và… nhờ ông giải thích cho vài chỗ còn lờ mờ trong bài thơ. “Khét nắng hôi trâu thèm đi học” thì tôi biết, nhưng “tóc bánh bèo” thì chịu. Trước kia tôi vẫn ngỡ bài thơ đó là của Bình Nguyên Lộc, có người còn nói của Khổng Nghi. Khi Phạm Duy phổ nhạc vẫn chỉ ghi tác giả là “khuyết danh” mà! Bây giờ biết tác giả là ông, tôi càng háo hức. Lạ, dù qua giọng ca Thái Thanh ngày xưa hay sau này Ý Lan, con gái Thái Thanh, cứ mỗi lần nghe hát, tôi lại thấy rưng rưng nhớ lại những ngày thơ ấu của mình. Câu chuyện kể trong bài thơ đó quá xúc động, không dừng ở câu chuyện riêng, mà ở một triết lý sống, một triết lý nghệ thuật với câu kết “Thì cứ hỏi cuộc đời” như mở toang một cánh cửa trống hoác…!

Dũng đưa tôi đến đúng lúc bữa cơm trưa của ông cùng với một người khách quen, Nguyên Tùng, Hội Nhà văn Bến Tre đến chơi. Dũng lí nhí giới thiệu bác sĩ Ngọc đến thăm bác Tư nè bác Tư. Ông kêu đem thêm chén đũa. Vẻ dè dặt. Tôi cười cười ngắm nghía ông. Thấy thương ghê. Ốm nhom ốm nhách trong bộ pijama lụa lùng nhùng đặc sệt Nam bộ. Tóc bạc lênh đênh chùi về phía sau, dồn cái trán rộng về phía trước, miệng móm mém, mũi cao, thẳng, mắt sâu và sắc như một thiền sư khổ hạnh. Tôi phân vân không biết nên gọi ông là chú hay là anh. Sau cùng tôi gọi ông bằng… anh vì nghĩ đã là một nhà văn như ông, hẳn nên được đối xử như một người không có tuổi, nhất là nhà văn này đối với tôi còn là một nhà thơ mà tôi hằng quý mến. Cho nên tôi gọi bằng anh. Gần gũi hơn, ấm áp hơn là chú, là bác, là ông, là cụ hay là… nhà văn! Tôi “thăm dò” bằng cách hỏi han ông: Anh có khỏe không? Hơi yếu hơn trước. Lúc này anh có bệnh gì không? Không. Chỉ bị phổi tắc nghẽn mãn tính thôi. Chắc tại anh hút thuốc lá hơi nhiều? Phải, nhưng nay đã bớt hút rồi. Bây giờ chỉ hút khi có khách. Tôi được biết năm ngoái ông đã từng phải vào cấp cứu ở bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu (Bến Tre) vì khó thở, rồi phải điều trị theo chương trình COPD mất tám tháng. Trong khi tim mạch vẫn rất tốt. Huyết áp ổn định. Ông lại với tay lấy gói thuốc, rút một điếu nữa, bật quẹt. Anh ốm quá, được bốn chục ký không? Bốn chục ký non. Hôm trước 40, nay còn 39 thôi. Vẫn lạnh nhạt, dè dặt.

Trên bàn là những món ăn tốt cho người già, tôi quan sát. Cơm trắng cá kho, canh rau, trái cây, rồi nào bưởi nào chuối luộc… Và một ly rượu nhỏ. Chắc có Nguyên Tùng đến nên Tùng một ly, ông một ly. Ông kêu Tùng rót thêm hai ly nhỏ nữa cho tôi và Dũng. Thấy Dũng hớp vội xong nhỏm dậy lo chạy việc riêng, tôi nhờ anh bấm cho vài tấm hình kỷ niệm. Ông để yên cho chụp không nói gì. Tôi bấm thêm mấy tấm cận ảnh lúc ông ngậm điếu thuốc, với cái dáng điệu nghệ mà tôi mê. Bỗng ông lên tiếng: Này, người ta nói “tốt khoe xấu che”, hiểu không? Tốt khoe xấu che. Chụp hình tôi thì chụp nhưng đừng có đăng báo đó nghe! Tôi cười cười trong bụng nghĩ đúng là ông già khó tánh. Tôi nói, già có cái đẹp của già chớ anh Tư! Mà quả thật, tôi thấy ông đẹp. Và khỏe nữa. Tai thính này. Mắt tinh này. Ông cho biết mới mổ cườm, vẫn đọc sách báo tốt. Và đặc biệt, trí nhớ tuyệt vời!

Rồi tôi lảng sang chuyện khác: Bài thơ được phổ nhạc với tên Quán bên đường của anh sao mọi người vẫn tưởng là của Bình Nguyên Lộc? Bởi vì Bình Nguyên Lộc là người đăng bài đó lên báo mà! Báo Vui Sống, khoảng 1960 gì đó phải không? Không, 1959 chớ. Mỗi lần nghe hát bài này sao tôi đều thấy muốn khóc. Lạ thiệt. Tôi nói. “Khét nắng hôi trâu thèm đi học…”, rồi  “khoai sùng lượm mót…”. À, mà “tóc bánh bèo” là tóc làm sao anh Tư? Có phải ba vá không? Không, không phải ba vá. Tóc bánh bèo, này Tùng - ông bỗng gọi - Tùng biết tóc bánh bèo không? Tùng nói: Dạ có phải cạo trọc, để lại một chùm đằng sau ót, tròn tròn… Ông cầm cái chén lên, vo vo theo miệng chén bảo đúng rồi, cạo trọc, để lại một miếng tròn như vầy, nhưng ở giữa phải có một chùm tóc như cái nhưn bánh bèo vậy! Thì ra thế. Cả tôi cả Tùng đều không biết.

Nhìn đồng hồ, thấy sắp đến giờ hẹn với Dũng, tôi bèn mở túi xách lấy mấy cuốn sách mang theo từ Sài Gòn xuống tặng ông. Đó là Già ơi… chào bạn!, Những người trẻ lạ lùng  Thư gởi người bận rộn. Xin gởi tặng anh Tư vài cuốn sách đọc cho vui, tôi nói. Ông nhìn tên tác giả trên bìa sách rồi ngạc nhiên: Ủa, Đỗ Hồng Ngọc hả? Tôi có đọc Đỗ Hồng Ngọc. Tôi thích cái style của Đỗ Hồng Ngọc đó! Ông lật lật, cười tươi, cởi mở, nồng nhiệt, thân thiện. Bỗng ông đứng lên, vui vẻ kêu: Ngọc ơi, đi qua đây, đi qua đây nghe bài hát Quán bên đường này. Tùng nữa. Qua đây. Một người bên Đức gởi tặng tôi đĩa này do Thái Thanh và Quỳnh Giao ca đó. Ông kéo tôi và Tùng qua phòng bên. Một phòng nhỏ, rất riêng, rất bề bộn của một nhà văn… Nào phin lọc cà-phê, tách trà, bình thủy… nào sách báo ngổn ngang các thứ. Rồi ghế xích đu, rồi võng… Ông chỉ chiếc ghế salon nhỏ cạnh bàn nước, kêu tôi ngồi, chỉ Tùng chiếc võng. Ông bật máy cassette rồi ngồi xuống chiếc ghế xích đu cạnh đó. Giọng Thái Thanh lảnh lót. Ngày xưa ngày xửa ngày xưa…  Rồi giọng Quỳnh Giao… Tôi lắng từng lời từng lời, lòng vẫn thấy rưng rưng… Thấy tôi gật gù, ông bỗng nở nụ cười: “Bẹo”, “chữ bẹo”… Ông nằm bật ngữa sảng khoái trên ghế xích đu, ngón chân nhịp nhịp theo bài hát, mắt lim dim. Nghe xong, tôi nói: Bài này còn có bản do Ý Lan ca rất hay nữa anh Tư à. Ý Lan là con gái Thái Thanh đó. Tôi chưa có bản đó, ông nói, hôm trước Phạm Duy xuống thăm cũng nói vậy. Ông lại hỏi: Quỳnh Giao con Dương Thiệu Tước phải không? Dạ phải. Thái Thanh hát technique nhiều, Quỳnh Giao hát có lòng hơn. Lúc phổ nhạc, người ta đã thêm bớt nhiều quá! Nhưng đành vậy thôi. Ông nói.

Rồi kéo tôi và Nguyên Tùng trở lại bàn ăn. Một Trang Thế Hy khác: Sôi nổi, hoạt bát, sắc sảo, dí dỏm… Chúng tôi nói về những người Việt trẻ tài năng. Ông nhắc Lê Bá Hùng, một thanh niên gốc Việt, hạm trưởng một tàu hải quân Mỹ USS Lassen vừa cặp cảng Đà Nẵng. Tôi nhắc một người gốc Việt khác, Philipp Roesler 36 tuổi là Bộ trưởng Y tế Đức. Tùng nhắc nhà văn Nam Lê ở Úc với The Boat. Chúng tôi lại nói đến giải Nobel, rồi đến Cao Hành Kiện. Có đọc bài diễn văn nhận giải Nobel của Cao Hành Kiện không? Ông hỏi rồi nhắc luôn những ý chính của bài diễn văn đó, đại khái nhà văn cần phải đứng cao hơn những ràng buộc và cám dỗ để đạt được tự do và độc lập trong tư tưởng… Im lặng một lúc, ông nói: Hôm trước có cô nhà văn gì đó hỏi tôi tại sao không ưa… mà thích Lỗ Tấn? Tôi không trả lời, nhưng hôm nay nói cho Đỗ Hồng Ngọc nghe nha: Tôi thích Lỗ Tấn vì… Ông đột ngột hỏi tôi: Có đọc Nhật ký người điên của Lỗ Tấn do Phan Khôi dịch rồi phải không? Tôi gật. Ông đọc thuộc lòng ngay một đoạn, đoạn kết của truyện ngắn Nhật ký người điên đó. Thấy chưa, Lỗ Tấn là như vậy đó… Ông đâu có quốc tịch. Ông là nhân loại. Là con người… “Hãy cứu lấy trẻ con vì nhiều em chưa kịp ăn thịt người!”.  Nhà văn trong bối cảnh nào cũng có cách riêng của nó. Nếu nó hòa hợp được thì nó đã hòa hợp, còn không, nó có cách riêng…

Khi biết tôi là cháu gọi Nguiễn Ngu Í bằng cậu, ông hỏi Ngu Í còn sống không? Đã mất từ 1979 sau những cơn điên nặng. Hồi trước Nguiễn Ngu Í có phỏng vấn anh mà, loạt bài trên báo Bách Khoa đó. Tôi nhắc. Đúng. Nguiễn Ngu Í phỏng vấn tôi lúc nào cũng viết Trang Thế Hi, với chữ I cụt! Lại móm mém cười. Rồi ông hỏi thăm tôi về bác sĩ Lương Phán, một người bạn thân của ông. Rồi cùng nhắc bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Tôi nói anh Chín Nghiệp quê ở Mỹ Tho? Không, Ba Tri, Bến Tre chớ!  Rồi cùng nhắc đến Trần Hữu Dũng và nhiều nhân vật khác…

Thấy đã quá trưa, nên rút để ông nghỉ. Dũng vẫn chưa trở lại. Tùng tình nguyện đưa tôi về để kịp giờ hội thảo buổi chiều. Ông đặt bàn tay trên mấy cuốn sách tôi tặng xoa xoa và nói đến thăm nhà văn mà nhà văn không có gì để tặng lại… Tôi cười “Già ơi… chào bạn!” là … Bonjour vieillesse đó anh, cũng như… Bonjour tristesse vậy mà! Ừ, Sagan, một cô bé mới mười mấy tuổi đầu mà đã viết Bonjour Tristesse… Ngay trong câu mở đầu cô đã viết… Rồi ông đọc vanh vách nguyên một đoạn mở đầu đó của F. Sagan cho tôi nghe. Tùng đã nổ máy xe đợi ngoài cổng. Ông lững thững theo tôi ra. Tôi bỗng muốn ôm chặt lấy ông một cái nhưng không dám, chỉ nắm cánh tay ông siết nhẹ:

- Thưa Thầy, em về!

Ông cười mắt nheo lại thật tươi.

ĐỖ HỒNG NGỌC
Nguồn: Văn Nghệ, 43/2014


NHÀ THƠ CHÍNH HỮU - NGƯỜI LẶNG LẼ ĐI, LẶNG LẼ ĐẾN

Trong diễn trình thơ Việt hiện đại, chúng ta rất ít gặp một người nào lặng lẽ như nhà thơ Chính Hữu. Sự lặng lẽ của ông không chỉ ở những bước đi trên con đường sáng tạo thi ca, mà ngay cả trong cuộc sống thường nhật, dù ở đâu người ta vẫn nhận ra cốt cách của một chính khách từng trải trong quan hệ với đồng chí, đồng đội và những người xung quanh. Đặc biệt là ngay cả khi ông đã cán đích người ta vẫn thấy ông lặng lẽ như chưa bắt đầu xuất hành.   
Nhà thơ Chính Hữu - tranh sơn dầu của Kevin Bowen

Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc. Ông sinh ngày 15/12/1926, mất ngày 27/11/2007, nguyên là Đại tá, Phó cục trưởng Cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.

Ông sinh tại TP. Vinh, tỉnh Nghệ An, nhưng quê gốc của ông lại là huyện Can Lộc nay là huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà thơ Chính Hữu là trường hợp hiếm hoi trong số các nhà thơ cùng trang lứa về quá trình đào tạo. Ông học tú tài triết học ở Hà Nội từ trước cách mạng tháng Tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và phục vụ trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tại chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ông đã từng làm chính trị viên đại hội.

Chính Hữu bắt đầu làm thơ từ năm 1947. Suốt hơn nửa thế kỷ, ông hầu như chỉ quan tâm viết về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng. Tập thơ Đầu súng trăng treo của ông xuất bản năm 1966 và được coi là tác phẩm chính của ông.

Cả đời cầm bút của ông để lại các tập như: Đầu súng trăng treo (1966); Thơ Chính Hữu (1997); Tuyển tập Chính Hữu (1998). Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, đợt II, năm 2001 với các tập thơ trên.

Nhiều bài thơ của nhà  thơ Chính Hữu được phổ nhạc thành các bài hát như Đồng chí (nhạc Minh Quốc), Ngọn đèn đứng gác (nhạc Hoàng Hiệp), Bắc cầu (nhạc Quốc Anh), Có những ngày vui sao (nhạc Huy Du).

Thơ ông không nhiều chỉ có khoảng 50 bài đã được công bố, nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Bài thơ Đồng chí được ông viết khá sớm, 1948 là một minh chứng sinh động nhất:

Quê hương anh nước mặn đồng chua 
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá 
Anh với tôi đôi người xa lạ 
Tự phương trời chẳng hẹn, quen nhau. 
Súng bên súng, đầu sát bên đầu 
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ 
Đồng chí! 

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày 
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay 
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. 
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, 
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi. 

Áo anh rách vai 
Quần tôi có vài mảnh vá 
Miệng cười buốt giá 
Chân không giày 
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay! 
Đêm nay rừng hoang sương muối 
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
Đầu súng trăng treo.
(02/1948)

Sau này bài thơ đã được phổ nhạc cho bài hát Tình đồng chí. Bài hát đã khơi dậy những xúc động mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Hơn thế, với Đồng chí, Chính Hữu đã có trong tay một tấm căn cước, một thẻ thông hành về thơ để bước lên văn đàn thơ Việt hiện đại.

Xem ra, câu mà người ta thường gọi là quý hồ tinh bất quý hồ đa, tức là văn chương, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng cần hay, tinh túy, chứ không cần  nhiều, ứng vào trường hợp của nhà thơ Chính Hữu dường như đúng tuyệt đối. Ông không phải là người thường xuyên có mặt và gây tiếng vang lớn trong quá trình phát triển thơ ca cách mạng, nhưng ngay ở thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã có một dấu mốc quan trọng với bài Đồng chí, khiến nhiều đồng nghiệp, đồng chí phải ngỡ ngàng. Thậm chí thơ ông còn cắm những mốc son, mang tính chất định vị, định hướng cho cả dàn hợp ca thơ cách mạng xét cả về nội dung tư tưởng lẫn phong cách sáng tác.

Chính Hữu là người không liên quan gì đến Phong trào Thơ mới, nhưng ông lại học Tú tài Triết học và là người mang hồn cốt Việt Nam, nên thơ ông dù khúc chiết, hàm súc đến mấy cũng rơi vào những suy diễn vòng vo, triết lý rối rắm, nên không khó hiểu. Vả lại, ngay từ khi cầm bút theo cách mạng, Chính Hữu là người rất ý thức tự đổi mới mình và theo đó là đổi mới thơ ca cách mạng. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sự ngây thơ, hồn hậu, có vẻ nặng về kể lể ở bài Đồng chí thời kỳ chống Pháp, nay được thay bằng nhịp thơ thôi thúc, câu thơ ngắn nhiều vần trắc và thanh không; ngôn ngữ khoáng đạt nhiều động từ nhấn mạnh tạo nên khí thế sôi động, cuốn hút như vẫy gọi bao lớp thanh niên lên đường tòng quân diệt giặc Mỹ cách đây gần 40 năm ở bài Ngọn đèn đứng gác.

Đi nhanh đi nhanh
Chiến trường đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
(Ngọn đèn đứng gác)

Bài thơ đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và trở thành bài hát quen thuộc đối với bao người trong nhiều thập niên đánh giặc. Giờ nghe hát hay đọc bài thơ lên, thế hệ những người lính đánh Mỹ năm xưa như được sống lại khí thế hào hung của một thời đạn bom, những ngày máu lửa.

Sau chiến tranh, thơ Chính Hữu thiên về suy cảm. Nhà thơ muốn nhận thức và lí giải một cách sâu sắc hơn những giá trị tinh thần của thời đại mình thông qua những trải nghiệm của cuộc đời: Nụ cười, Kỉ niệm trung đoàn, Nghĩa trang liệt sĩ, Trong vũ trụ im lặng, Dọc theo tường điện Kremlanh…Trong Nụ cười, Chính Hữu thành thực tâm sự rằng, trong cuộc đời cũng đã “đôi lần chán nản”. Những lúc ấy ông đã phải vịn vào những giá trị tinh thần để tìm ra “cách hiểu mới nhất / về sống và chết, được và mất?”.
Sau những tháng năm “ồn ào lứa tuổi” nhà thơ trở lại khám phá sự “im lặng” trong ý thức và trong tư duy một thời của mình. Không phải ngẫu nhiên ông gọi Nghĩa trang liệt sĩ là “đất hành hương”, nơi ta đến để suy nghĩ, nơi ghi “không phải cái mất đi/ mà cái để lại”. Với nhà thơ, những hàng tên trong nghĩa trang vẫn rầm rì, một cuộc sống vẫn đập mãi mãi:

Tôi chưa thấy nơi nào sáo động lòng tôi
Bằng nơi yên nghỉ đời đời
Tôi chưa bị ai phê bình dữ dội
Bằng người đang lặng im không nói.

Bài Người bộ hành lặng lẽ của Chính Hữu được gợi ý từ tên một cuốn sách nổi tiếng, cuốn Những mơ mộng của người bộ hành cô độc của J.J Rousseau (nhà văn Pháp thế kỷ XVIII). Theo Rousseau, đi bộ là một “hành vi đẹp nhất của con người”. Đi bộ để nghĩ được nhiều hơn; Đi bộ tránh xa được sự rắc rối; Đi bộ để khám phá ra được nhiều nên “càng đi càng yêu” và Đi bộ thấy được thời gian đang bước, “thấy được sự khác nhau giữa các mùa hạ”, “thấy được sự khác nhau giữa các mùa đông”. Có người cho rằng đây là bài thơ triết lý về cuộc đời hay nhất của Chính Hữu. Bài thơ làm năm 1996, tức là khi ông vừa bước vào tuổi 70, cái tuổi “xưa nay hiếm”:

Tôi càng muốn xa
Những sự rắc rối
Chỉ thích nhìn đời một cách đại khái
Để càng yêu hơn…
Vì tôi chỉ đi, chỉ ngắm, chỉ nhìn
không nói nên không phải cãi
(Người bộ hành lặng lẽ)

Có thể thấy bài thơ chất chứa sự chiêm nghiệm về cuộc đời cầm súng và cầm bút, vừa đánh giặc, vừa làm thơ dằng dặc hơn nửa thế kỷ qua mà Chính Hữu vừa muốn tự nhủ lòng mình, vừa muốn nói lại với những người đi sau, với con cháu của ông?

Lấy nguồn cảm hứng từ bài thơ Người bộ hành lặng lẽ của Chính Hữu, nhà thơ Hữu Thỉnh viết bài Gửi người bộ hành lặng lẽ, đề tặng nhà thơ khá xúc động và có thể nói là một dấu mốc quan trọng, như là báo hiệu một sự đổi mới thi pháp của Hữu Thỉnh:

Ông là khách quen của những buổi chiều
Bạn thân cùng im lặng
Ông chỉ mong tạo ra nhiều khoảng trống
Khoảng trống dịu dàng quà tặng của mùa thu
 ...
Thế kỷ sóng to
Ông lặn qua tận đáy
Lấy khoan dung làm chiếc phao bơi
Khiến cay đắng cũng nhuốm màu tha thứ
...
Cây vẫn đây mà năm đã qua
 Xuân lại đến giúp Ông làm gậy chống
(Gửi người bộ hành lặng lẽ)

Giản dị, hồn hậu và có pha chút hào sảng, nhưng vẫn đầy ắp sự chiêm nghiệm suy tư trong Thế kỷ sóng to, nhưng một người như ông vẫn có thể lặn qua tận đáy. Bởi lẽ ông luôn biết Lấy khoan dung làm chiếc phao bơi. Điều đó còn có cả sự hàm ơn người đồng chí, người anh đã đem đến cho mình một bài học quý giá về lối sống và lẽ sống ở đời. Có lẽ một trong số những người hiểu về tính cách lặng lẽ của Chính Hữu nhất là người đồng chí, người đàn em, nhà thơ Hữu Thỉnh. Người Hữu trước hiểu người Hữusau đến mức bài thơ Gửi người bộ hành lặng lẽ  trở thành một trong những bài thơ hay nhất của nhà thơ Hữu Thỉnh trong tập Thương lượng với thời gian. Đấy cũng là nét mới về thi pháp của nhà thơ Hữu Thỉnh trong mảng thơ về đề tài thế sự của ông.

Đúng là sau khi đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, dân tộc ta bước vào công cuộc dựng xây, phát triển đất nước sau chiến tranh. Cơ man những việc cần phải làm, trong đó còn có cả việc dẹp yên lòng người và yên lòng mình. Sau chiến tranh, thường nổi lên những kẻ công thần, những người đòi quyền lợi. Không ít người tự cho mình đã đóng góp, cống hiến nhiều nên phải được đãi ngộ cao hơn so với đồng chí, đồng đội và đồng bào mình. Rỗi các cuộc đấu đá tranh giành quyền chức, địa vị, đem công trạng trong quá khứ cá nhân để mặc cả với tổ quốc, dâ tộc trong hiện tại và tương lai. Những điều ấy khiến những ai có lương tâm và trách nhiệm trước cuộc sống còn nhiều khó khăn của dân tộc mình như nhà thơ Chính Hữu không khỏi chạnh lòng:       

Cháu dắt ông đi 
Hai ông cháu mình vừa đi vừa học 
Ông dạy cháu biết tất cả những gì 
Có ở trên trời dưới đất 
Còn cháu thì dạy ông biết 
Cuộc đời này ngắn, nhưng ông đừng buồn 
Vì nó - vĩnh hằng - tiếp tục 
Đường vào thế kỷ hai mốt, 
Hai người bộ hành một cháu một ông 
Những bước đầu tiên đi song song, 
Bên những bước cuối cùng. 
(Hai người bộ hành)

Điều đáng nói là bước sang thế kỷ XXI, người ta đi bằng ôtô, máy bay, tàu ngầm siêu tốc, còn ông, nhà thơ Chính Hữu vẫn đi bộ cùng đứa cháu nội mới 16 tháng tuổi. Phong cách sống chậm ấy của ông không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận và có thể làm được như ông.  

HUYỀN VÂN
Nguồn: VHQN


Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2019

CÂU LẠC BỘ THƠ VIỆT NAM: ĐỨA CON VÔ THỪA NHẬN?

Tự hào là câu lạc bộ thơ đông thành viên nhất Việt Nam song một điều không thể ngờ, CLB Thơ Việt Nam 12 năm qua vẫn loay hoay tìm chốn “dung thân”. Bởi chẳng “cha mẹ” nào muốn nhận “đứa con” khổng lồ này.

Mượn “áo” Hội Nhà văn Việt Nam

Ngay những hội viên bình thường của Hội Nhà văn Việt Nam đều nhận thức rõ ràng, CLB Thơ Việt Nam không liên quan gì đến tổ chức của họ. Trước câu hỏi: “Hội Nhà văn Việt Nam nên chăng quan tâm đến CLB Thơ Việt Nam nhiều hơn, thay vì chỉ dừng lại ở Ngày Thơ Việt Nam?”. Một nhà thơ tên tuổi kịch liệt phản đối: “Tôi không đồng ý với quan điểm này. Hội Nhà văn là một tổ chức xã hội, còn các CLB lại là một kiểu khác. Họ sinh hoạt cho vui. Còn nếu ai đó có dấu hiệu lừa đảo thì vi phạm pháp luật rồi”. Nhà thơ Phạm Đức, người phụ trách sân thơ CLB trong Ngày Thơ Việt Nam cũng khẳng định: “Quan tâm đến CLB thơ nói chung, CLB Thơ Việt Nam nói riêng, không phải nhiệm vụ của Hội Nhà văn Việt Nam”.

Theo Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: “Hội Nhà văn Việt Nam không có quyền cho phép các CLB thơ hoạt động hay không hoạt động. Một CLB ở một thị trấn, một làng quê, một đơn vị… được quản lí bởi địa phương đó, cơ quan đó, chứ không thuộc phận sự của cơ quan chuyên môn là Hội Nhà văn”. Ngày Thơ Việt Nam có sân chơi cho các CLB thơ, được ông Nguyễn Quang Thiều lí giải: Ngày thơ Việt Nam là một ngày hội nên thành phần tham dự đa sắc màu, một phần dành cho những nhà thơ chuyên nghiệp, còn phần nữa cho những người dân yêu thơ, đó có thể là khách đến với hội thơ hay các CLB thơ tham gia.

Nhưng nếu ai đã đến trụ sở  của CLB Thơ Việt Nam ở số 7 Phùng Hưng, phường Văn Quán, quận Hà Đông, TP Hà Nội sẽ thấy, trên tấm biển tự “quảng cáo”, ngoài tên CLB Thơ Việt Nam ở giữa, nổi bật bằng chữ đỏ, kèm logo của CLB thì dòng chữ trên cùng là “Hội Nhà văn Việt Nam” kèm logo của Hội. Ông Nguyễn Quang Thiều tiết lộ: “CLB Thơ Việt Nam dưới thời ông Bành Thông rất muốn trở thành một đơn vị của Hội Nhà văn Việt Nam, muốn Hội Nhà văn bảo trợ. Nhưng Hội Nhà văn không bao giờ đồng ý chuyện đó. Bởi đó là phong trào quần chúng không phải một tổ chức chuyên nghiệp về nghề nghiệp”. Nhưng nếu Hội Nhà văn đã tuyên bố rõ ràng không thu nạp CLB Thơ Việt Nam tại sao vẫn để CLB này công khai mượn “áo”?!

“Chốn an cư” cũng “núp bóng”

Không chỉ gõ cửa Hội Nhà văn Việt Nam, hành trình tìm “cha mẹ” của CLB Thơ Việt Nam vẫn tiếp tục ở những nơi “danh giá” khác. Nhiều hội viên Hội Nhà văn Việt Nam “mách”: CLB Thơ Việt Nam từng “cầu cứu” Trung tâm Văn hóa TP Hà Nội. Chúng tôi có cuộc trao đổi với Phó Phòng Nghiệp vụ Văn hóa Điện ảnh, Trung tâm Văn hóa TP Hà Nội, vị này xác nhận: CLB Thơ Việt Nam đề đạt vấn đề gia nhập Trung tâm nhiều lần nhưng bị từ chối vì nhiều lí do.

“Chỉ có thể nói vài lí do khách quan: Trung tâm đã có nhiều CLB thơ rồi. CLB Thơ Việt Nam phải có gì khác đi với những thứ bên tôi đã có, thì còn có khả năng xem xét. Thêm nữa, CLB Thơ Việt Nam về tôn chỉ, mục đích hoạt động khác với hoạt động của các CLB thuộc Trung tâm Văn Hóa TP Hà Nội. Đã gia nhập CLB của Trung tâm thì từng thành viên phải tự nguyện nhưng ngoài ra còn phải tuân theo những tôn chỉ, mục đích khác nữa. Tức là sẽ có những tiêu chí chặt chẽ hơn. Bên kia, CLB Thơ Việt Nam, có yếu tố thương mại, lại mở rộng ra toàn quốc, một cách tự do, không hề có yếu tố quản lí nhà nước trong đó. Những yếu tố chủ quan, khách quan, cách thức hoạt động của CLB Thơ Việt Nam không đảm bảo để có thể là CLB mang tính chuẩn chỉnh của thành phố”.

Có người thắc mắc: Nếu Trung tâm Văn Hóa TP Hà Nội kiên quyết từ chối CLB Thơ Việt Nam, tại sao vẫn cho CLB này thuê một căn phòng làm trụ sở? Liệu điều đó có làm cho người ngoài văn chương hiểu lầm thái độ của Trung tâm Văn Hóa TP Hà Nội hay không? Vị Phó Phòng Nghiệp vụ Văn hóa Điện ảnh nói: “Dân số của chúng ta đông vậy thì nhầm lẫn là chuyện bình thường. Nhưng mà người tham gia những hoạt động liên quan đến văn thơ thì đương nhiên phải biết. Ban đầu họ có thể họ bị thiếu thông tin.

Nhưng khi họ đã tham gia, họ phải rõ cách thức”. Vị này nói thêm: “Với lại nó có yếu tố lịch sử từ giai đoạn CLB thành lập, cho nên đến thời điểm này, giám đốc của Trung tâm vẫn tạm để CLB mượn văn phòng hoạt động”. Khi phóng viên đề nghị một sự xác nhận, “Mượn hay thuê?”, vị phó phòng đáp: “Thuê nhưng giá rẻ như bèo. Cái chính là nó mang tính lịch sử, nếu sau này một giám đốc nào đó lên thì có thể người ta không chấp nhận chuyện đó luôn. Đồng chí giám đốc hiện nay sống rất có đức, nể nang chứ thực ra không có lí do gì để một phòng cho CLB Thơ Việt Nam hoạt động. Ở đây, tôi không nói CLB này hoạt động đúng hay sai, mà chỉ muốn nói nó không phục vụ gì cho hoạt động của Trung tâm Văn Hóa TP Hà Nội cả”.

Song rõ ràng CLB Thơ Việt Nam từng được cấp phép, mới có thể hoạt động trải qua hơn chục năm? Đơn vị nào cấp phép cho CLB Thơ Việt Nam? Các nhà thơ chuyên nghiệp đều lắc đầu: “Không biết”. Bản thân CLB Thơ Việt Nam cũng muốn “né” điều này nên không “khoe” ở bất kỳ tài liệu nào, cũng chưa từng phát ngôn. Vì thế, CLB Thơ Việt Nam mới mong muốn được về với Hội Nhà Văn Việt Nam hoặc Trung Tâm Văn Hóa TP Hà Nội để hợp thức hóa mình? Một hội viên Hội Nhà văn Việt Nam kết luận: “Do lịch sử để lại. Mà người làm nên lịch sử là ông Bành Thông đã khuất, mang theo luôn bí mật ấy”. Liệu tới đây, CLB Thơ Việt Nam có tìm được đơn vị chủ quản? Nhà thơ Phạm Đức đưa ra dự đoán: “Nó to thế, nơi nào quản nổi”.

Náo loạn Ngày Thơ Việt Nam

Cùng với nỗ lực tìm “cha mẹ”, CLB Thơ Việt Nam luôn tận dụng mọi cơ hội khuếch trương thanh thế. Tại Ngày Thơ Việt Nam vừa qua một số hội viên Hội Nhà văn Việt Nam phản ánh: CLB Thơ Việt Nam “cướp diễn đàn”, gây náo loạn ở sân thơ CLB. Người có trách nhiệm với sân thơ CLB, nhà thơ Phạm Đức đến lúc này vẫn ngác ngơ không hiểu vì sao CLB Thơ Việt Nam toàn chiếm được những quán thơ ở vị trí “đắc địa”: “Chia cho mỗi CLB tham gia một quán thơ. Tất cả các CLB tham gia đều phải bốc thăm vị trí.

Thông qua bốc thăm đàng hoàng mà không biết cách nào họ chiếm được những vị trí đẹp nhất”. Một nhà thơ khác bổ sung: “Đã thế còn chiếm cả vị trí bàn, loa đài, micro điều khiển, rồi tổ chức uống rượu vui vẻ”. Nhà thơ Phạm Đức phàn nàn: Ngay cả trên sóng truyền hình quốc gia, có rất nhiều CLB tham gia nhưng chỉ thấy những “quan” của CLB Thơ Việt Nam được xuất hiện, được phát biểu, đến người của Hội Nhà văn phụ trách sân chơi này cũng bị “ngó lơ”. Phạm Đức kết luận: “CLB Thơ Việt Nam muốn khuếch trương thanh thế”.

Từ rất lâu, CLB Thơ Việt Nam đã tạo được ảnh hưởng ở nhiều thôn, xã thuộc nhiều vùng của đất nước. Thậm chí có những người quê không biết những nhà thơ chuyên nghiệp nổi tiếng, song họ lại biết ở thôn họ, xã họ có những nhà thơ thuộc CLB Thơ Việt Nam. Bản thân nhiều nhà thơ được kết nạp vào CLB Thơ Việt Nam cũng tỏ ra vô cùng hãnh diện và nghĩ mình mang trên vai trọng trách lớn lao.

Nhà thơ Quang Hoài kể một kỷ niệm: “Có dạo tôi về Phúc Yên, Vĩnh Phúc, theo chân một ông bạn tới nhà một thành viên của CLB Thơ Việt Nam. Tôi thấy ông ấy đặt quyển thơ do CLB tuyển chọn lên bàn thờ thắp hương cúng vái. Lễ lạt tổ tiên xong xuôi, mới ra tiếp khách. Bởi vì trong quyển thơ ấy, ông này có một bài được đăng”.  Nói về chất lượng thơ của CLB Thơ Việt Nam, nhà thơ Quang Hoài và nhà thơ Phạm Đức đều thống nhất quan điểm: Quá kém, đã thế một số người còn tích cực “thó” nữa. Mà họ không nghĩ đó là “ăn cắp”.

Vì sao lại nảy sinh mục đích thương mại từ CLB Thơ Việt Nam hay một vài CLB thơ khổng lồ khác? Theo ông Nguyễn Quang Thiều nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ thái độ của một bộ phận người Việt với văn chương: “Tại sao có những người quá đau khổ vì không được vào Hội Nhà văn? Trong khi anh ta vẫn có thể trở thành nhà văn, nhà thơ mà không vào Hội? Ở nước ta, nhiều người lấy danh nhà thơ để làm việc khác trong xã hội, thế mới xảy ra chuyện tiêu cực”.

NÔNG HỒNG DIỆU
Nguồn: Tiền Phong


Thứ Ba, 12 tháng 3, 2019

NHÀ THƠ PHAN HOÀNG: KHI CON SÔNG ĐỔI DÒNG…

“Nhiều khi mắc cười tôi chất vấn tôi/ tại sao con người cứ tự đánh lừa mình bằng những thói quen/ không học nổi con sông biết thích nghi đổi dòng băng băng về phía trước?” - thơ Phan Hoàng.
Nhà thơ Phan Hoàng đưa con trai Phan Hoàng Phan về quê Phú Yên ăn Tết

* Nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế: Nhà thơ Lê Minh Quốc khẳng định bốn điều tất nhiên ở Phan Hoàng là nhà thơ, nhà biên khảo, nhà báo và là người phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam nhiều nhất làng báo. Nhưng thưa ông bạn Phan Hoàng, ở góc độ cá nhân, nếu để thông tin về mình thì ông sẽ nói gì?

- Nhà thơ Phan Hoàng: Một người sống bằng nghề viết chuyên nghiệp. Và cũng giống như anh hay các đồng nghiệp khác, trước đây chúng ta viết bằng bút còn bây giờ viết chủ yếu bằng máy vi tính.

* Hình như mỗi khúc quanh của đời sống lại khiến ông tìm đến những những khám phá mới trong sáng tác.

- Cảm ơn anh đã quan tâm và có cái nhìn tinh tế. Tôi là người thích xê dịch, khám phá trong đời sống lẫn trang viết. Tôi ít chịu đứng yên và rất sợ lặp lại cái cũ. Tôi vốn sinh ra vào thời chiến. Mẹ tôi, gia đình tôi là nạn nhân của chiến tranh. Tỉnh Phú Yên quê tôi là một trong những chiến trường ác liệt. Trong trận chiến cuối cùng vào mùa xuân năm 1975 để thống nhất đất nước, có lẽ Phú Yên là nơi người chết nhiều nhất khi quân đội Sài Gòn rút khỏi Tây Nguyên theo hai “con đường máu” là đường 5 và 7 cũ chạy xuống duyên hải miền Trung. Lính chết nhiều mà người thân gia đình lính chết càng nhiều. Nỗi ám ảnh ấy đeo tôi dai dẳng. Và tôi luôn tự hỏi vì sao phải tiến hành chiến tranh, vì sao con người phải chết oan ức trong mưa bom bão đạn? Có cách nào để tránh chiến tranh không? Các vị tướng nghĩ gì trước sự hy sinh của rất nhiều người lính? Vì vậy khi mới bắt đầu đi làm báo, tận dụng chuyên mục “Mỗi kỳ một nhân vật” trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, tôi tìm mọi cách gặp gỡ, phỏng vấn các vị tướng từng chỉ huy trực tiếp trên chiến trường để tìm câu trả lời cho chính mình. Nhờ đó mà bộ sách nhiều tập Phỏng vấn Tướng lĩnh Việt Nam đã ra đời, tạo cảm hứng cho các tập sách khác cũng lần lượt được xuất bản: Phỏng vấn Người Sài Gòn, Phỏng vấn Người Hà Nội, Dạ thưa thầy!...

* Dù cuộc chiến của chúng ta là chiến tranh nhân dân, nhưng vai trò quyết định thành bại của các vị tướng trước đối phương vẫn là quan trọng. Điều đó chính xác đến đâu?

- Những người càng tài năng càng khiêm tốn, dễ gần gũi, thân thiện. Các vị chiến tướng cũng vậy. Công trận đầy mình nhưng khi trở về đời sống thường nhật họ là người chồng người cha người ông đầy tình thương yêu và họ sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm khi xã hội cần đến. Tôi nhớ vị tướng bác học Trần Đại Nghĩa nói rằng, nếu không có Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp thì trận Điện Biên Phủ chưa chắc thắng lợi vang dội như vậy. Hoặc trận Xuân Lộc đánh mở “cánh cửa thép” cho đại quân tiến vào Sài Gòn xuân 1975, nếu không có sự trực tiếp chỉ đạo “giải vây” khó khăn của Thượng tướng Tư lệnh Miền Trần Văn Trà thì sự hy sinh sẽ còn rất nhiều. Không chỉ trên chiến trường mà trên mọi lĩnh vực khác tôi thấy vai trò cá nhân là rất quan trọng, đôi lúc thay đổi cả cục diện. Điều đáng tiếc là có một thời chúng ta chỉ nói chung chung, không xác định vai trò cá nhân, nhiều tư liệu lịch sử quý báu trong ký ức họ cũng mất đi.

* Nghệ thuật phỏng vấn nhân vật, điều gì là quan trọng nhất?

- Điều quan trọng nhất là phải tìm hiểu kỹ thông tin và thực sự cầu thị, tôn trọng nhân vật mình phỏng vấn. Kế đến là việc xử lý văn bản sao cho logic và cuốn hút, không được áp đặt cái tôi người viết lên bài phỏng vấn. Người đọc muốn tìm hiểu về nhân vật được phỏng vấn chứ không phải tìm hiểu người đi phỏng vấn. Một người phỏng vấn giỏi phải biết ẩn mình, khơi mở, tạo cảm hứng cho nhân vật lẫn bạn đọc.

* Vậy còn với thi ca thì sao?

- Sau khi xuất bản hai tập thơ đầu tay trong vòng gần 7 năm là Tượng tìnhHộp đen báo bão, tôi dừng lại tập trung làm báo để mưu sinh và cũng tìm hướng đi mới cho thơ mình. Nguồn cảm hứng từ thực tế đời sống hiện tại bộn bề, mâu thuẫn, xuống cấp, suy đồi với bao hỉ nộ ái ố đã giúp tôi hoàn thành tập thơ Chất vấn thói quen để xuất bản sau 10 năm. Vốn say mê lịch sử và sinh ra trên mảnh đất Phú Yên một thời trấn biên trên hành trình khẩn hoang mở cõi về phương Nam của dân tộc, tôi lại quay ngược về cội nguồn tìm thi hứng dựng trường ca Bước gió truyền kỳ. Rồi hai chuyến đi Trường Sa cách nhau 5 năm cũng giúp tôi hoàn thành một trường ca khác là Gió hợp hôn đất nước dự kiến xuất bản thời gian tới.

Năm 2018 là một năm đầy “biến động” đối với tôi. Từ bỏ nhiều hoạt động xã hội, tôi tranh thủ thời gian du lịch nhiều nơi, tập trung đọc sách, nghiên cứu tìm con đường mới cho sáng tác. Sau chuyến tham quan hai thành phố lớn Moskva và Saint Petersburg đầy ấn tượng về văn hoá Nga, trên chuyến bay trở về khi ngang vịnh Ba Tư ở Trung Đông tự dưng tôi nảy ra ý tưởng thể nghiệm một hình thức thơ mới gọi là Thơ 1-2-3. Hơn 40 bài thơ viết theo kiểu này của tôi đã ra đời trong hơn 3 tháng qua, được nhiều báo đăng tải và một số bạn thơ cộng hưởng.

* Trội trong tác phẩm Bước gió truyền kỳ là tính sử thi, gợi hành trình mở cõi về Nam và hải hành Trường Sa của Đại Việt thêm một vài bài thơ lẻ thấy đặc sắc giọng Phan Hoàng, nhưng lắng một chút thì ta vẫn thấy thấp thoáng âm vọng Tình sông núi, Đèo Cả. Tôi cho rằng đó là sự kế thừa, tinh tế, xuất sắc. Ông thấy sao?

- Kế thừa được một chút tinh hoa của các bậc tiền bối để tạo nên cái riêng biệt cho mình chẳng dễ dàng chút nào. Tôi rất khâm phục hai nhà thơ lớn Trần Mai Ninh và Hữu Loan khi không sinh ra ở Phú Yên nhưng thẩm thấu được môi trường thiên nhiên lẫn bề dày văn hoá đất này để viết nên những tác phẩm bất hủ. Tôi cũng tiếc nhà thơ Trần Mai Ninh hy sinh quá sớm còn nhà thơ Hữu Loan chỉ gắn bó Phú Yên một thời gian ngắn nên không tiếp tục mạch nguồn sáng tạo đầy hào khí từ nắng gió, non nước hùng vĩ đất này. Vì vậy, từ trong vô thức lẫn ý thức tôi muốn chắt chiu, gợi hứng, khơi lại một phần nguồn mạch thơ quan trọng này. 

* Phải chăng phản tỉnh bản thân là phản tỉnh đạt ngưỡng cảnh giới. Chất vấn thói quen là tác phẩm thơ, nhưng lại đặt một câu hỏi một cách văn xuôi như vậy. Khi một con sông chuyển dòng để băng lên phía trước, thì đâu có đơn giản, nó phải lột xác… Tôi thích nghe ông nói thêm về điều này, vì đó cũng là một ý trong thơ của ông.

- Tôi nghĩ mình chẳng bao giờ đạt ngưỡng cảnh giới nhưng luôn có ý thức phản tỉnh. Phản tỉnh trong đời sống đầy bất trắc. Phản tỉnh cả trên trang viết luôn có nguy cơ cũ kỹ sáo mòn. Có thói quen tốt, nhưng cũng có thói quen là chướng ngại làm hại con người. Một dòng sông khi gặp chướng ngại đổi dòng luôn mang lại vẻ đẹp kỳ thú. Có thể chỉ là một ngả rẽ uốn khúc thơ mộng. Nhưng cũng có thể tạo nên dòng thác kỳ vĩ. Tôi tin con người cũng vậy:

Nhiều khi mắc cười tôi chất vấn tôi
tại sao con người cứ tự đánh lừa mình bằng những thói quen
không học nổi con sông biết thích nghi đổi dòng băng băng về phía trước?

* Người Phú Yên có nhiều tên tuổi nổi tiếng trong làng văn làng báo, tiêu biểu như Võ Hồng, Nguyễn Mỹ, Thanh Quế, Trần Huiền Ân, Y Điêng, Ngô Phan Lưu... và gần đây có Nguyễn Phong Việt nổi lên như một hiện tượng thú vị về xuất bản thơ. Những văn nhân xưa “liên lụy” đến Phú Yên như Đỗ Huy Nhiệm, Trần Mai Ninh với Nhớ máu, Tình sông núi, Hữu Loan với Đèo Cả, Trần Vũ Mai với Trường ca Làng Phước Hậu,… và Vĩnh Mai cán bộ tiền khời nghĩa. Những tên tuổi ấy cũng như nhiều nhân vật khác, ai là người còn được Phú Yên cảm mến “cảo thơm lần giờ trước đèn”?

- Tất cả những tài năng và nhân cách dù sinh ra ở đâu mà có đóng góp giá trị cho Phú Yên tôi tin đều được yêu quý và ghi nhận, không chỉ hôm nay mà cả mai sau. Và không chỉ văn chương mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Phú Yên là một trong những “địa linh”, nơi sinh ra hai vị thánh của hai tôn giáo lớn: Tổ sư Liễu Quán của Phật giáo và Thánh Andre Phú Yên của Thiên Chúa giáo. Phú Yên cũng là nơi sinh ra hai nhà chính trị, tư tưởng hàng đầu: Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam và một nhân vật đối kháng là Trương Tử Anh tác giả chủ thuyết “Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn”, sáng lập và lãnh đạo Đại Việt Quốc dân đảng giai đoạn 1939-1946, Chủ tịch Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam từ khi thành lập đến khi tan rã cuối năm 1946. Dù thành bại khác nhau nhưng họ đều là những nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng.

* Do tài năng nên người sáng tác mới tìm mình trong các thể loại khác nhau hay là do hiện thực cuộc sống đòi hỏi bản thân phải tự nới rộng “kích cỡ”? Ý kiến của ông về nhận xét này?

- Tôi nghĩ cả hai, do tài năng lẫn hiện thực cuộc sống. Khi thơ không chuyển tải hết thì người cầm bút có thể chuyển tải bằng các thể loại khác như ký, tuỳ bút, truyện ngắn, tiểu thuyết. Vấn đề là tác phẩm có giá trị và có đứng được lâu bền trong lòng bạn đọc hay không. Đừng nghĩ viết được nhiều thể loại là mình có tài. Tôi tâm niệm như vậy nên luôn nỗ lực hết mình. Bởi tài năng là do thiên phú, mình không thể tự tạo ra tài năng của mình được, nên đừng ảo tưởng và cũng đừng đố kỵ cái tài của người khác.

* Sẵn nói về tài năng và sự đố kỵ, ông thấy trong giới văn chương điều này biểu hiện ra sao?

- Thật đáng sợ. Nhà văn Trần Nhã Thuỵ trên Tinh Hoa Việt có nói rằng sự độc ác vô tình nảy sinh từ lòng ghen ghét, đố kỵ. Điều ấy rất đúng và càng lộ rõ từ khi có mạng xã hội. Tuy nhiên, tôi cũng thấy có niềm vui lớn là những người tài năng đích thực thường liên tài, hỗ trợ, nâng nhau lên trong giới văn chương nước ta.
Nhà thơ Phan Hoàng ở Nga 9-2018

* Trong số rất nhiều bài viết về tác phẩm và con người Phan Hoàng, nếu với một người không có nhiều thời gian đọc hệ thống thì, ông khuyên bạn đọc đó nên đọc những bài nào để có thể “tổng quan” về Phan Hoàng?

- Mỗi bài viết có cái thú vị riêng và mỗi người đọc có quyền cảm nhận riêng từng bài. Tôi cũng không có quyền khuyên. Những bài viết nghiên cứu có chiều sâu trên cơ sở văn bản học luôn mang lại sự thích thú, cho dù có những tác giả chưa gặp mặt tôi bao giờ mà chỉ đọc tác phẩm. Bởi có khi gặp rồi thì họ không viết hay được như vậy (cười).

* Sài Gòn - TPHCM là cái nôi tiên khởi của báo chí thị trường nên hầu như các nhà văn nhà thơ thành phố này đều tìm đến thể loại báo chí vừa để thể hiện mình và vừa kiếm sống. Đó có phải là một lý do để Phan Hoàng giỏi thao tác thể loại văn học phi hư cấu?

 - Lịch sử cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa báo chí và văn chương nước ta kể từ khi chữ quốc ngữ hình thành và phát triển. Phần lớn nhà văn xuất thân nhà báo hoặc gắn bó với báo chí. Nhiều tác phẩm văn học vốn là những thiên phóng sự báo chí. Không chỉ Sài Gòn mà ở Hà Nội và một số tỉnh thành khác cũng có nhiều cây bút xuất sắc về thể loại văn học phi hư cấu. Tuy nhiên, đúng là Sài Gòn có một môi trường thuận lợi hơn để đăng tải, xuất bản, ấn hành. Riêng tôi, trên cơ sở tư liệu phỏng vấn báo chí, gần đây tôi đã viết và xuất bản, tái bản những cuốn cách mang thể loại ký và tản văn: Sài Gòn đất lành chim đậu, Sài Gòn đất thiêng khí tụ, Sài Gòn ngọt từ da thịt ngọt ra.

* Sài Gòn ngọt từ da thịt ngọt ra - một cái tên có vẻ sexy khiêu khích nhưng hơi hướng nghệ thuật ẩm thực. Tiếc là tôi chưa được đọc cuốn sách này của ông. Cuốn sách này thế nào ạ?

- Đây là một tập hợp những tản văn và tuỳ bút về Sài Gòn đã đăng tải toàn bộ trên báo chí. Trong đó, cái bài tôi lấy làm tựa sách đúng là viết về ẩm thực, bởi với người Sài Gòn và Nam Bộ ăn uống cái gì cũng phải ngọt. Nhiều trái cây đã ngọt mà còn chấm thêm đường. Kho thịt, nấu canh cũng bỏ vào rất nhiều đường. Họ cũng thêm đường vào ly khi uống các loại nước ngọt. Ăn ngọt uống ngọt nên cơ thể con người cũng… ngọt. Tôi là rể Nam bộ mà!

Đầu tháng 4.2018, NXB Văn hoá văn nghệ tổ chức buổi giới thiệu, giao lưu ra mắt tập sách Sài Gòn ngọt từ da thịt ngọt ra tại sân khấu trung tâm Hội Sách TP.HCM lần thứ X, thu hút đông đảo bạn viết bạn đọc tham gia. Thật vui khi nó được bầu chọn là một trong mười sự kiện quan trọng nổi bật của hội sách. Điều buồn cười là sau đó có một người gọi là nhà phê bình khi viết đả kích cuốn sách này trên facebook cứ nhầm là thơ, rồi từ đó suy diễn lung tung, nghĩa là ông ta không hề đọc hay theo dõi thông tin báo chí mà cứ tự “diễu võ dương oai”. Một kiểu phê bình hóng hớt tầm phào.

* Với TPHCM thì tờ báo nào cũng có tản văn. Nhiều người viết tản văn về văn hóa, lối sống Sài Gòn mà thành những cái tên phải nhớ, dù họ là những công dân thường không sinh ở đó. Ông có thể lý giải tại sao không?

- Với vị thế địa lý của mình, từ trong lịch sử Sài Gòn là đầu mối giao lưu, hội nhập của nhiều nền văn hoá từ Đông sang Tây. Và ảnh hưởng từ môi trường sống thuận lợi, người Sài Gòn sinh ra ở đây hay gắn bó chặt chẽ với đất này thường sống phóng khoáng, nhân hậu, hết lòng vì người khác. Đó là chất liệu phong phú cho những trang tản văn vừa mang tính thời sự vừa có sự chiêm nghiệm từ vỉa tầng văn hoá. Với những cây bút từ nơi khác đến, Sài Gòn như cuộc tình mới nồng cháy mang lại nguồn cảm hứng dâng trào cho những trang viết. Nếu như tản văn của Hà Nội đọc chậm, đa tầng đa nghĩa, gợi nhiều suy ngẫm thì tản văn Sài Gòn đọc nhanh, đi thẳng những vấn đề của đời sống thực tại, mang lại hứng thú tức thì cho người đọc.

* Viết tản văn hay về Sài Gòn đa phần không phải là người Sài Gòn, trong đó có Phan Hoàng. Còn Hà Nội thì ngược lại chỉ có người Hà Nội hoặc sinh ra ở Hà Nội mới viết tản văn hay về Hà Nội, như trường hợp Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Băng Sơn… Ông giải thích thế nào về hiện tượng này?

- Tản văn là thể loại viết nhanh. TP.HCM là thành phố trẻ, nhịp sống nhanh và sôi động, dễ cuốn hút người ta vào “cuộc tình mới” với cái nhìn đa chiều và khác biệt dễ được chấp nhận. Có những cây bút sinh ra ở đây như Bùi Chí Vinh, Đỗ Trung Quân, Lý Lan và một số bạn trẻ gần đây viết tản văn cũng khá hay về quê mình, nhưng đúng là số lượng không nhiều bằng các cây bút nơi khác đến. Còn cái đặc sắc của Hà Nội là cổ kính, thâm trầm đòi hỏi sự thẩm thấu mang tính di truyền hoặc sự trải nghiệm chọn lọc lâu bền qua thời gian. Với Hà Nội, ngoài những người sinh ra ở đó như anh nói, tôi thấy có những cây bút từ nơi khác đến cũng viết tản văn hay về thủ đô như Trung Trung Đỉnh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thuý, Như Bình… và đặc biệt là Nguyễn Quang Thiều nay là người thủ đô nhưng vốn sinh tận làng Chùa, Hà Tây cũ.

* Chiến lược nuôi dưỡng, phát triển các cây bút trẻ ở TP.HCM như thế nào, nếu như nhìn vào vai trò của ông hiện tại, cũng như đã trải…

- Tôi đâu giữ vai trò gì quan trọng mà có chiến lược. Từ trải nghiệm của mình, tôi muốn góp phần tiếp thêm động lực cho các bạn trẻ mới bước vào nghề, nhất là những bạn có tài năng và nội lực có thể đi đường dài. Qua các hội nghị viết văn trẻ hay toạ đàm, giao lưu mà tôi góp công tổ chức hoặc giải thưởng nhà văn trẻ đầu tiên của thành phố, mà cũng đầu tiên cả nước, đã quy tụ, điểm danh, gợi mở cho nhiều cây bút trẻ.

* Một Phan Hoàng nổi tiếng với bạn đọc phía Nam và bạn nghề cả nước. Và ngược lại cũng có những nhà văn phía Bắc nổi tiếng ở Bắc, nhưng không nổi ở Nam. Điều gì đã xảy ra? Có phải do “phát hành” hay PR?

- Anh quý tôi mà nói vậy thôi chứ tôi có làm được việc gì ra hồn đâu mà nổi tiếng. Một thợ rèn giỏi nhất định sẽ được bạn nghề và người tiêu dùng biết đến. Một thợ mộc, thợ đúc đồng hay người kinh doanh cũng vậy. Cái khác là người hành nghề chữ nghĩa phải chịu trách nhiệm dài lâu về trang viết của mình. Tôi hy vọng mình sẽ trở thành người làm nghề bền bỉ trước khi thực sự giỏi.

________________________________

Nhà thơ Phan Hoàng sinh ngày 10.10.1967 tại tỉnh Phú Yên, tốt nghiệp chuyên ngành ngôn ngữ học Trường đại học Tổng hợp TP.HCM, từng làm phóng viên - biên tập viên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, Chủ biên tờ Người Đương Thời (sau đổi tên là Người Đương Thời).

Ngoài công việc chính là Trưởng đại diện Văn phòng thường trực miền Nam báo Văn Nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Phan Hoàng hiện còn là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM.

Tác phẩm đã xuất bản:

Tượng tình (thơ 1995)
Hộp đen báo bão (thơ 2002)
Chất vấn thói quen (thơ 2012, tái bản 2015)
Bước gió truyền kỳ (trường ca 2016)
- Phỏng vấn Tướng lĩnh Việt Nam (3 tập 1997-2000, tái bản 4 lần)
Phỏng vấn Người Sài Gòn (2 tập 1998-1999)
- Phỏng vấn Người Hà Nội (2 tập 1999-2000, tái bản 2 lần)
Dạ, thưa thầy! (2 tập 2000-2002, tái bản 2 lần)
Sài Gòn đất lành chim đậu (ký sự nhân vật tập I-2016, tái bản 1 lần 2016; tập II-2018)
Sài Gòn đất thiêng khí tụ (ký sự nhân vật 2017, tái bản 1 lần 2018)
Sài Gòn ngọt từ da thịt ngọt ra (tản văn 2018)

Giải thưởng:

- Giải nhất bút ký báo Khoa Học & Đời Sống năm 1998 với bài Khi nhà thơ làm kinh tế.
- Giải thưởng thơ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 2003-2004 với bài Bước gió truyền kỳ.
- Giải ba cuộc thi thơ nhạc Đây biển Việt Nam với hai bài thơ Mặt trời trong ngôi nhà đầy sóng đầy gió, Gió hợp hôn đất nước, do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam và báo VietNamNet tổ chức năm 2011-2012.
- Giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM năm 2012 với tập thơ Chất vấn thói quen.
- Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012 cho tập thơ Chất vấn thói quen.

NGUYỄN THAM THIỆN KẾ (thực hiện)
Theo báo Tinh Hoa Việt/ Đại Đoàn Kết
số tân niên 2019




BÀI MỚI ĐĂNG

NGUYỄN PHAN QUẾ MAI - HÃY NÓI VỀ CUỘC ĐỜI

Xe vút đi trên những con đường cao tốc, còn tôi thì ngồi đó, lặng người trong giai điệu trầm bổng của Khúc Thụy Du. Mùa hạ California nở bun...