Nhà văn Vũ Bằng
Nói về sự nghiệp văn chương, Vũ Bằng là một trong những
cây viết đầu tiên của thời kỳ văn học 193-1945, trước cả Tô Hoài, Nam Cao... Thậm
chí, ông còn là người phát hiện và đỡ
đầu cho những sáng tác tập tành mới vào nghề của Nam Cao và Tô Hoài. GS Phong
Lê kể lại, thời kỳ làm ở tờ Tiểu thuyết thứ bảy, Vũ Bằng đã nhận được bản
thảo một truyện ngắn có tên là “Cái lò gạch cũ”, vốn bị bỏ lăn lóc một góc. Nhà
văn đã đổi tên truyện ngắn thành “Đôi lứa xứng đôi” và nhờ một nhà văn đàn anh
viết lời tựa. Truyện ngắn trở nên nổi tiếng và mở đầu cho trào lưu văn học hiện thực. GS Phong Lê khẳng định: “Nếu
như không có cuộc “dinh tê” vào nam từ năm 1954, chắc chắn với những tác phẩm của
mình, Vũ Bằng có tên trong lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ 1930-1945,
không chỉ với tư cách một cây bút hiện thực nổi trội, mà còn là một tên tuổi lớn
ngang hàng với Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng…
Nhà văn Hoàng Quốc Hải nói: “Vũ Bằng là một nhà báo có bản
lĩnh, đồng thời là một nhà văn hiện thực trữ tình. Cuộc đời làm báo 40 năm của
ông đa mang lại nhiều đóng góp mà không thể cân đo, đong đếm được. Ngay từ khi
mới bước chân và nghiệp cầm bút, Vũ Bằng đã sử dụng báo chí như một công cụ đấu tranh cho quyền của người dân
ngay trong gông cùm của thực dân Pháp”.
Đặt một phép
so sánh thú vị giữa Vũ Bằng với một ngòi bút nổi tiếng khác là Nguyễn
Tuân, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nhận xét, về tùy bút, Vũ Bằng và Nguyễn Tuâncó
nhiều nét tương đồng và khác biệt. Cả
hai cùng có những tác phẩm viết về món ăn và thuốc phiện, nhưng mỗi người lại
có một “con đường” riêng biệt để đi. “Nếu như Nguyễn Tuân viết mang tính ngoại
hướng, trình bày những kiến thức của mình trong những trang tùy bút, thì
Vũ Bằng lại có những ý tưởng tản mạn
về một vấn đề bằng những liên tưởng kỳ thú và theo nội hướng”. Tác giả “Mẫu Thượng
Ngàn” nói. “Ngọn đèn dầu lạc” của Nguyễn Tuân viết về những trí thức, thanh
niên bị nghiện, còn “Cai” của Vũ Bằng là hồi ký về quá trình cai nghiện
của chính bản thân tác giả. “Đây là hai tác phẩm rõ nét nhất cho xu hướng nội hướng và ngoại hướng của hai nhà
văn” – nhà văn Nguyễn Xuân Khánh phân tích.
Đặc biệt, những
tác phẩm ông viết về quê hương miền Bắc vào thời kỳ đó là “Miếng ngon Hà Nội”
và “Thương nhớ mười hai” đã tại nên một dòng văn học về Hà Nội độc đáo.
GS Phong Lê nói: “Những tác phẩm của Vũ Bằng đặc sắc nhất là những hoài nhớ về
thủ đô Hà Nội. Phải có một lý tưởng
như thế nào, một tình cảm như
thế nào mới viết được như vậy. Những tác phẩm này xứng đáng là bộ sách quý
hiếm về Hà Nội”.
Hơn 30 năm sống
trong Sài Gòn, dưới vỏ bọc một
nhà văn “quay lưng lại với Cách mạng” để hoạt động trong mạng lưới tình
báo, Vũ Bằng đã phải chịu nhiều điều tiếng và sự lạnh nhạt của bạn văn, cũng
như người đời. Ngay cả sau khi đất nước thống nhất, Vũ Bằng vẫn mang tiếng
“dinh tê”, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn trong đường dây tình
báo.
Âm thầm im lặng và chỉ biết trút nỗi niềm vào những trang
viết, Vũ Bằng đã gửi tình yêu, nỗi nhớ và nỗi buồn của mình vào những tác phẩm
bất hủ, mà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh gọi là “mặc dù chỉ viết về hoa quả, ăn
chơi, hội hè, văn hóa…, nhưng lại rất chính trị”. Nỗi đau, nỗi cô đơn đã tạo
nên những nét riêng trong văn chương của Vũ Bằng” – nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
nhận xét.
Chịu đựng một nỗi oan khuất như vậy, nhưng Vũ Bằng không
bao giờ lên tiếng tự nói về mình. Phải đến đầu những năm 90, khi những tài liệu
về hoạt động bí mật của nhà văn Vũ Bằng được công bố, tên tuổi và sự nghiệp của
ông mới được gột rửa, mặc dù khá muộn màng.
TUYẾT LOAN
Nguồn: Nhân Dân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét