Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

CHẤT VẤN THÓI QUEN VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO TRONG THƠ PHAN HOÀNG

Từ tập thơ Tượng tình (1995) đến Hộp đen báo bão (2002) và Chất vấn thói quen (2012), hành trình thơ của Phan Hoàng đã trải qua hàng chục năm lao động miệt mài trên cánh đồng thơ. Để rồi sau mười năm, từ tập thơ Hộp đen báo bão Phan Hoàng xuất bản Chất vấn thói quen chỉ với 36 bài thơ, điều đó cho thấy anh là người rất cẩn trọng với thơ, rất trân trọng người đọc…
PGS.TS Trần Hoài Anh

1. Không phải ngẫu nhiên, tập thơ Chất vấn thói quen của Phan Hoàng, (Giải thưởng Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2012), khi xuất hiện trên văn đàn đã tạo một cơn địa chấn trong đời sống văn học với hàng chục bài viết đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng mà theo thống kê chưa đầy đủ trong Chất vấn thói quen - Tác phẩm và dư luận thì có 21 bài như: “Thay đổi cảm hứng bầu trời” của Nguyễn Quyến, “Bốn ấn tượng về Chất vấn thói quen” của Trần Phò; “Một xuất phát mới trong thơ Phan Hoàng” của Đặng Huy Giang; “Giọng thơ hào sảng rất riêng” của Trần Nhã Thụy; “Lao vào mọi dòng xoáy biển đời, chất vấn thói quen” của Hoàng Thụy Anh; “Những cơn bão ký tự ấm trong thơ Phan Hoàng” của Phạm Ngọc Hiền; “Suy nghiệm từ cuộc sống trút vào thơ” của Trần Huy Minh Phương; “Thơ Phan Hoàng tiếng kêu thảng thốt của những nền tảng văn hóa xã hội đương thời” của Hoa Nip; “Cơn bão ký tự mới” của Vũ Thanh Hoa; “Thèm làm một ngọn gió rong chơi” của Anh Thư; “Hà Nội nồng nàn cùng chất vấn thói quen” của Phan Đình Minh; “Nhà thơ Phan Hoàng và người tình ma lực” của Nguyễn Quỳnh Trang; “Phan Hoàng xông đất văn học thủ đô” của Hiền Nguyễn; “Phan Hoàng được tặng khăn trong lễ ra mắt thơ” của Dương Tử Thành; “Nhà thơ Phan Hoàng day dứt với làng quê” của Đào Đức Tuấn; “Nhà thơ – nhà báo Phan Hoàng: “Báo là nghề, thơ là nghiệp”” của Nguyễn Tý và Phùng Hiệu; “Nhà thơ Phan Hoàng: “Chất vấn thói quen” hay là sự chối bỏ các khuôn mẫu” của Bình Nguyên Trang; “Nhà thơ Phan Hoàng: Thơ là cái đẹp hiện hữu tâm hồn mỗi người” của Hàn Thanh Nhân; “Nhà thơ Phan Hoàng: Thơ hay như phụ nữ có duyên” của Loan Trầm. Và cho đến đầu năm 2015, tức sau ba năm tập thơ được xuất bản vẫn tiếp tục có những bài viết về Chất vấn thói quen đăng tải trên báo chí: “Học cách ‘chất vấn’ từ Phan Hoàng của Phan Thuỷ, “Cuộc chiến khắc khoải mười năm vật vã cơn bão chữ” của Quang Hoài…

Các bài viết dù xuất phát từ những điểm nhìn khác nhau, của những người làm nghề nghiệp khác nhau, sống ở những miền quê khác nhau nhưng đều có sự gặp gỡ chung đó là sự nhận diện về cái mới, cái lạ như một sự bứt phá trong thi pháp thơ của Phan Hoàng. Đó là sự lột xác để từ bỏ những thói quen cũ, cái nhìn cũ, tư duy cũ, một điều cốt tử trong hành trình sáng tạo thi ca, cũng như các lĩnh vực sáng tạo khác trong đời sống xã hội. Bởi, bất cứ một sự vật hiện tượng nào trong đời sống cũng dung chứa trong nó cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thói quen, từ góc nhìn văn hoá cũng hàm chứa trong nó cả hai mặt trên. Nghĩa là có thói quen tốt nhưng cũng có thói quen xấu và việc bỏ được một thói quen xấu cũng như rèn luyện một thói quen tốt là hành trình không đơn giản. Không những thế, việc chất vấn, đối thoại với thói quen của chính mình là một thách thức không dễ vượt qua. Việc Phan Hoàng chọn tiêu đề với một cái tên rất lạ, nghe chẳng thơ chút nào “Chất vấn thói quen” làm tựa đề cho tập thơ của mình, phải chăng cũng là cách tác giả muốn phá vỡ một “thói quen” thường thấy trong sáng tác thơ ca, khi trong các “chợ thơ” tràn ngập các tập thơ với những cái tên nghe “rất kêu”, “rất nổ”, “rất bốc” và… “rất sáo” như: miền yêu, giọt nắng, giọt hoa, giọt mơ, giọt hồng... mà khi đọc thơ chỉ là những con chữ rỗng tuếch, vô hồn, những cảm xúc giả tạo nhưng lại được một số nhà “phê bình” tung hê là “mỹ học” của “cái này, cái khác”... Chính những thứ thơ màu mè, vô vị được PR bởi lối “phê bình xu phụ” kia đã tầm thường hóa giá trị của thơ, làm cho bạn đọc quay lưng với thơ, xa lánh thơ. Rất may, thơ Phan Hoàng không rơi vào trường hợp này. Đọc Chất vấn thói quen không phải câu thơ nào trong tập thơ cũng toàn bích và không phải không còn những chỗ cần được hoàn thiện trong thi giới, trong cảm xúc, trong tư duy thơ. Nhưng có điều chắc chắn ở tập thơ này ta không còn nhận ra cái thi giới quen thuộc của thơ Phan Hoàng trước đây mà đã có một sự lột xác trong bút pháp và tư duy thơ. Chất vất vấn thói quen không chỉ là sự chất vấn bản thể, một chất vấn mang tâm thức hiện sinh trước những vấn đề nhức nhối của nhân sinh và phận người mà còn là sự chất vấn thi pháp và tư duy thơ của chính mình để tìm ra chân trời mới cho hành trình sáng tạo thi ca. Ở Phan Hoàng sự tự lột xác này không phải là vấn đề bản năng, tự phát mà hơn hết và trên hết là sự tự ý thức của hành trình dấn thân ở một thi sĩ không bao giờ muốn gặm nhấm mình, muốn “ăn mày dĩ vãng” để “tự sướng”, “tự sung”, “tự kêu”... rồi không bao giờ chịu đổi mới hành trình sáng tạo của mình như anh đã xác quyết: “Một người cầm bút không gì đau khổ hơn là lặp lại chính mình và lặp lại của người khác. Để tránh cái lối mòn ấy, cái thói quen ấy cần có sự dũng cảm. Thói quen lặp lại không chỉ đang chi phối đời sống sáng tạo thi ca, mà nó còn hiện diện trong cả sách giáo khoa văn học lẫn phương pháp giảng dạy của giáo viên môn văn. Tôi gọi đó là thói quen không biết sợ hãi. Bởi nếu biết sợ hãi, ý thức về sự trì trệ của đời sống thơ ca thì những người liên quan phải tìm cách thay đổi, để cái đẹp của thi ca và văn học sinh sôi nảy nở” (Chất vấn thói quen – Tác phẩm và dư luận).

Vâng! Để chống lại thói quen “cần phải có sự dũng cảm” kể cả thói quen “không biết sợ hãi”. Bởi, từ bỏ một thói quen đơn thuần đã khó, từ bỏ một thói quen đã hằn sâu trong tư duy sáng tạo lại càng khó hơn. Ý thức được điều này, Phan Hoàng luôn “chất vấn thói quen” trong tư duy thơ với một hành trình khám phá để luôn làm mới mình, làm cho cõi thơ mình thực sự lấp lánh một vùng ánh sáng của những dự phóng sáng tạo.

Nhiều khi mắc cười tôi chất vấn tôi
tại sao con người cứ tự đánh lừa mình bằng những thói quen
không học nổi con sông biết thích nghi đổi dòng băng băng về phía trước?

                                                                (Chất vấn thói quen)
Tập thơ Chất vấn thói quen của Phan Hoàng tái bản năm 2015

2. Đọc Chất vấn thói quen của Phan Hoàng, ta thấy những trăn trở về sự thay đổi thói quen trong tư duy thơ là một tâm thức hiện sinh luôn ám ảnh hành trình sáng tạo thơ của anh. Và những cảm hứng sáng tạo này được thể hiện qua sự kiến tạo thế giới thi ca của tác giả từ việc chọn lựa thi đề, giọng điệu, ngữ ngôn, ảnh hình, cấu trúc mỗi bài thơ và của toàn bộ tập thơ.

Và có thể nói Chất vấn thói quen là một diễn ngôn có tính đa nghĩa, là một “văn bản dở dang” nhằm đối thoại với người đọc về những vấn đề của đời sống để tìm sự sẻ chia, để cho những con chữ vô hồn kia trở thành một tín hiệu thẩm mỹ kết nối thi nhân và độc giả. Đây cũng là ý thức về vai trò của người đọc trong tiếp nhận văn học, một điều mà không phải người cầm bút nào cũng nghĩ đến. Điều nảy cho thấy sự thay đổi hệ hình trong tư duy thơ của Phan Hoàng mà những bài thơ như: “Chữ nghĩa thị trường”, “Cơn bão ký tự mới”, “Văn bản dở dang”, “Chất vấn thói quen”, “Tình yêu tiếng mẹ dở dang”... là một minh chứng cho sự đổi thay này...

Thơ ca bao giờ cũng là tiếng gọi thê thiết đối với người đọc và sự đồng vọng của tiếng gọi từ người đọc sẽ là “tiếng chim gọi đàn” làm lay động vũ trụ thi ca. Vì vậy, có thể xem bài thơ “Văn bản dở dang” là tuyên ngôn nghệ thuật cho hành trình sáng tạo thơ Phan Hoàng khi nhà thơ biết “chất vấn”, biết từ bỏ “thói quen” lỗi thời trong tư duy của lối thơ ca minh hoạ đã từng là một “lực cản” đối với sự vận động và phát triển của thơ ca ở một thời chưa xa. Và trong một ý nghĩa nào đó, đây cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời hậu chiến đang đi tìm một bầu khí quyển mới cho vũ trụ thi ca để “đoạn tuyệt” với “thói quen” của tư duy thơ sáo mòn, xơ cứng, công thức nhưng lại nhân danh quá nhiều những điều huyễn hoặc ngoài văn chương để biện mình cho sự trì trệ làm cản trở sự đổi mới thi ca.

Mọi nền văn minh hình như phát tích từ khoái lạc giấc mơ ánh sáng vô thức chống lại thói quen kỹ năng bóng tối ý thức
kỹ năng nhân danh tiến bộ gặm nhắm từng khoảnh khắc tự nhiên sự sống

Vượt lên đau đớn và thăng hoa
tôi tự tại giấc mơ tôi
mưa ban mai lặng lẽ gióng chuông gọi hồn tận thế
những con chữ như chiến binh chuyển dịch văn bản thơ mãi mãi dở dang

văn bản vô ngôn
văn bản tinh huyết
văn bản ma lực
tâm chấn tín hiệu khoái cảm

Đắm chìm sâu giấc mơ khoái lạc
đắm chìm sâu văn bản dở dang
tôi phát hiện tôi
khác xa dần
xa dần
cánh đồng thâm canh cảm xúc con trâu cái cày
khói lam mây xám ăn quẩn chái bếp thiếu gạo của mẹ
dàn đồng ca hát nhép tân cổ giao duyên mùi mẫn cởi áo trao nhau

Cơn hồng thuỷ khoái cảm âm thầm nổi lên
kỹ năng dục vọng trang phục mỹ từ mục ruỗng bị đánh đắm
từng đợt sóng tín hiệu bụi vàng ký ức dâng tràn 

                                                (Văn bản dở dang)

Ý thức về sự đổi mới thi pháp và thay đổi điểm nhìn nghệ thuật trong sáng tạo thi ca đã tạo cho Phan Hoàng một quyết tâm chống lại căn bệnh sáo mòn, bảo thủ của nếp tư duy già nua để vươn đến một khát khao sáng tạo.

tẩy xoá nếp nhăn tư duy già nua
hằn sâu gương mặt rỗ nhàu trái đất
rỗ nhàu đúc khuôn thần đồng sáng tạo

Những lúc bay trên đỉnh thăng hoa
lơ mơ thấy mình
hào phóng chàng trai độc quyền cánh rừng nguyên sinh
rực hương thiếu nữ
ném phăng kỹ năng dục vọng trang phục mục ruỗng
bồng bềnh ngọn lửa trong ngần khoái lạc
từng đợt sóng tín hiệu kỳ bí dâng tràn
va đập chín chiều ký ức
đánh thức bụi vàng lãng quên

Song, đó là khát khao sáng tạo đích thực chứ không phải là sự “sáng tạo” của những trò làm xiếc ngôn từ với các câu thơ mà ở đó chỉ là những con chữ vô hồn, khô khốc, nhạt nhẽo không gắn với thân phận con người, với nỗi đau của cuộc sống nhân sinh, chỉ vật vờ như chiếc bóng mà khi tiếp nhận không để lại trong tâm cảm, tâm thức người đọc một chút ấn tượng nào.

Vật vờ như ngọn gió vô hình
trong thế giới ảo
lớp lớp ký tự vô hồn
nhà nhà nhốn nháo
những ký tự thiếu tư duy số phận

           (Cơn bão ký tự mới)

Vì vậy, đọc Chất vấn thói quen của Phan Hoàng ta luôn bắt gặp trong cảm thức của thi nhân một sự khắc khoải đến đớn đau trước những cái lỗi thời, ấu trĩ, đang mê hoặc con người, với những “bảng vàng bia đá” hư ảo và giả tạo, đang là một thứ xiềng xích vô hình và hữu hình trói buộc / huỷ hoại mọi sáng tạo của con người không chỉ trong lĩnh vực thơ ca mà còn ở rất nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Đời người chỉ một gang tay
sao tự trói mình xích xiềng lê dài giá trị bia đá?

                                      (Văn bản dở dang)

Và khát vọng sáng tạo trong thơ Phan Hoàng đã trở thành một tuyên ngôn sống mang tâm thức hiện sinh của những con người không chấp nhận sự nhàm chán đến cũ kỹ của lối tư duy giáo điều, mù xám mà một số người đang sử dụng để tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc người khác. Hãy biết thích nghi với cái mới để tiến về phía trước, sáng tạo những câu thơ mang tính dự báo, tính nhân văn sâu sắc. Đó là một yếu tính của thi ca mà thi nhân cần thấu triệt chứ không phải là những tư tưởng giáo điều huyễn hoặc. Vì thế, cần có một cơn “đại hồng thuỷ” để thay đổi nếp tư duy lỗi thời trong hành trình sáng tạo thi ca cũng như mọi hành trình sáng tạo khác của cuộc sống, đó cũng là điều ám ảnh tâm thức thơ Phan Hoàng ở Chất vấn thói quen.

Làm sao bùng lên nhiều cơn hồng thuỷ
dâng sóng tín hiệu đỉnh khoái
cuốn phăng những kho văn bản mộng mị ngủ muộn
những kho văn bản ấu trĩ già cỗi
những kho văn bản hư danh giả dối
khủng bố dòng chảy tự do ngôn từ
ám sát khát khao chồi xanh ý tưởng
đe doạ cánh rừng nguyên sinh rực hương thiếu nữ căng tràn văn bản nhựa sống tương lai

                                                                     (Văn bản dở dang)

Chính khát khao sáng tạo này là chất xúc tác làm nên sự đổi mới thi pháp thơ Phan Hoàng ở Chất vấn thói quen. Vì thế, trong tập thơ, ta bắt gặp nhiều bài thơ mới / lạ thể hiện phẩm tính đổi mới trong hành trình sáng tạo thơ của tác giả. Đó là những bài thơ: “Mặt trời trong ngôi nhà thân thuộc”; “Cái chết đen và vũ khúc trắng”; “Bóng tối đang nuốt chúng ta”; “Tiếng thì thầm” “Cái chết của bạo chúa”; “Tôi đang ở đâu?”; “Thèm làm ngọn gió tự do”... Và trong các bài thơ này có những câu thơ đầy ám gợi luôn làm ta khắc khoải, trở trăn...

Chiều ăn phố sực mùi khoai lang nướng
gió hú nhớ đồng thơm dậy giấc cố hương 

                                   (Ly hương gió)

Hay:
        
Thì thầm giao hưởng bất tận
tuần hoàn qua những đại dương phận người lênh đênh
cuốn cánh buồm tôi trôi mê mải hải lưu buồn
đau những chân trời tư tưởng tật nguyền
câu thơ neo bờ nước mắt

                                (Tiếng thì thầm)

Để rồi, từ những khắc khoải mang tâm thức hiện sinh, nhà thơ tự “chất vấn” về sự hiện hữu của bản thể, về sứ mệnh của người cầm bút, sứ mệnh của văn chương trước những vấn đề nóng bỏng của hiện thực đời sống đang đặt ra cho thơ ca, rất cần sự dấn thân của người nghệ sĩ. Đây cũng là một trong những cảm hứng chi phối hành trình sáng tạo trong thơ Phan Hoàng ở Chất vấn thói quen mà người đọc có thể cảm nhận từ những sẻ chia đầy trách nhiệm của người cầm bút trước những “cuộc bể dâu” từ “những diều trông thấy”...

Tôi đang ở đâu đất nước sinh từ hồn thiêng nghĩa sĩ vô danh?
Đất nước dãi dầu hạt gạo anh hùng, xảo quyệt đám rầy nâu chưa bị hành quyết!

Tôi đang ở đâu cây bút mang đầy danh hiệu sứ mệnh?
Cây bút vô cảm trước thân phận dân nghèo, im lặng trước lãnh thổ đe doạ ngoại xâm, bất lực trước cái ác trá hình nhũng nhiễu!

Tôi đang ở đâu cây bút mang đầy danh hiệu sứ mệnh?
Tôi đang ở đâu?
Ở đâu?
                                           (Tôi đang ở đâu?)

Chất vấn thói quen, vì vậy là một sự vượt thoát chính mình trong hành trình sáng tạo thi ca. Và đây cũng là một thành công đáng trân trọng của Phan Hoàng trong ý thức làm mới đời sống thi ca đương đại.

3. Từ tập thơ Tượng tình (1995) đến Hộp đen báo bão (2002) và Chất vấn thói quen(2012), hành trình thơ của Phan Hoàng đã trải qua hàng chục năm lao động miệt mài trên cánh đồng thơ. Để rồi sau mười năm, từ tập thơ Hộp đen báo bão Phan Hoàng xuất bản Chất vấn thói quen chỉ với 36 bài thơ, điều đó cho thấy anh là người rất cẩn trọng với thơ, rất trân trọng người đọc. Song, để chiếm lĩnh trọn vẹn tâm cảm người tiếp nhận, Phan Hoàng không dừng lại ở đây mà phải luôn đổi mới, biết từ bỏ “thói quen” lỗi thời trong lao động nghệ thuật, trong thi pháp thơ để vượt lên chính mình, hầu hoàn thiện hơn nữa hành trình sáng tạo thi ca của mình.

Đọc Chất vấn thói quen ngoài những thành công như đã khẳng định, một điều hạn chế dễ nhận thấy trong thơ Phan Hoàng ở tập thơ này đó là chất tự sự của một nhà báo làm thơ đôi chỗ đã lấn át chất trữ tình vốn là một yếu tính của thơ, khiến cho sự lan tỏa cảm xúc của thơ đến độc giả nhiều khi chưa thật hoàn hảo. Chất triết luận trong một số bài thơ nhiều chỗ chưa thể hiện hết độ chín tư duy và chiều sâu tâm hồn. Thơ là sự tan chảy của lý trí và tình cảm. Nếu hai yếu tố này không hòa quyện được trong thơ thì thơ sẽ thiếu sức lay động lòng người. Đây cũng là điều thi nhân cần nhận biết trong hành trình sáng tạo thi ca và cũng là một “thói quen” cần phải vượt qua. Khắc phục được những hạn chế này, thơ Phan Hoàng sẽ neo được trong tâm thức người đọc và sẽ có một vị trí xứng đáng trong nền thơ ca hiện đại của dân tộc. Bởi nói như Guillaume Apollinaire: “Nhà thơ là kẻ tìm ra được những hứng thú mới, dẫu hứng thú đó khó chịu đựng. Có thể thành nhà thơ ở mọi lĩnh vực: miễn là thích phiêu lưu và đi khám phá”.

Hy vọng từ Chất vấn thói quen, Phan Hoàng không ngừng khám phá vũ trụ thi ca với “hứng thú mới” để tự khai phóng những chân trời lao động, sáng tạo làm phong phú thế giới thi ca của mình.

Xóm Đình An Nhơn, tháng chạp Giáp Ngọ - 10.02.2015
TRẦN HOÀI ANH

Nguồn: Văn Nghệ


NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ: Ý TƯỞNG LÀ QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU

Năm qua, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư gây chú ý trên văn đàn với tập truyện ngắn “Cố định một đám mây” và tập thơ “Gọi xa xôi” cùng Giải thưởng Liberaturpreis của Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin, trao cho tập “Cánh đồng bất tận” (bản tiếng Đức). Trước thềm xuân mới, PV báo Đại Đoàn Kết có cuộc trò chuyện với nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

PV: Thưa nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, nhắc tới Tết, chị nghĩ tới điều gì?

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Những rộn ràng cũng cũ. Tôi từng viết vậy, về Tết. Nó không còn là thứ ngọt ngào như lúc còn con nít mà từ hồi nào trở nên nhàm chán, tẻ nhạt. Như một trò thiêng đã giải xong. Có thể vì tôi đã khác hoặc Tết đã khác. 

Tôi nghĩ là do cả hai. Điều đó  khiến cho những trang viết về Tết của chị, trong tản văn hay truyện ngắn, cũng khác xưa. Đã từng có khi nào chị phải gò mình lại để viết, để chiều theo những lời mời cộng tác bài vở với các tờ báo Tết?

- Hồi xưa thì có. Giờ thì tôi tự do viết theo ý mình. Và biết từ chối những lời mời, dù những mời mọc là thứ áp lực cần thiết để tôi làm việc (đôi khi quá sức của mình). Cơ bản tôi không muốn bên mời cảm thấy khó xử, khi gọi bài mà lại không thể in, bởi tác phẩm của mình hoặc quá rầu rĩ, hoặc phạm vào kiêng kị. Bao giờ tôi cũng nói, văn tôi u tối lắm, anh (chị) nhắm có chịu được không?

Dù là viết theo “đơn đặt hàng”, nhưng suy nghĩ thì không ai “đặt” được?

- Không, ý tưởng là do tôi tự chủ. Nên phải từ chối nếu họ thích tôi viết gì đó có liên quan tới Tết, hay những thứ đèm đẹp, kiểu như Tết nhớ gì đó, thương gì đó. Người ta có thể nhớ bất cứ lúc nào, sao phải đợi Tết mới nhớ. Mà tôi chắc già rồi, không ưng cái kiểu hoài nhớ, ngoái lại nữa. Bữa rồi nghe nói có cuốn sách Tết, tôi hơi sợ, nghĩ đọc hết cuốn ấy, từ đầu tới đuôi toàn Tết, chắc là một trải nghiệm ám ảnh. 

Vậy thì khi bắt đầu viết một tác phẩm mới, sau khi đã có ý tưởng, chị thường quan tâm nhất là điều gì?

- Mình sẽ kể câu chuyện này theo cách nào, giọng điệu nào, nhìn từ ngôi nào. Tôi nghĩ mỗi người đều biết những câu chuyện gần giống nhau về con người, về tình yêu và thù hận, cảm thông và đố kỵ, nhưng tùy vào cách kể, mà câu chuyện ấy sống động hay tẻ nhạt. Dĩ nhiên ý tưởng là quan trọng hàng đầu, sau khi có nó, mọi thứ đều thuần về kỹ thuật.

Thế còn yếu tố cảm xúc có vai trò như thế nào trong việc viết của chị? Chị có thường phải nuôi dưỡng cảm xúc cho mình? Những cảm xúc xã hội, những cảm xúc gia đình liệu có chi phối và tác động như thế nào đến việc viết của chị? 

- Ý tưởng chính là cảm xúc. Nó gây hưng phấn ngay từ hình thành. Và tôi sẽ nghĩ về nó, theo đuổi nó trong một thời gian trước khi bắt đầu viết. Mệnh nó có thể yểu, vì tôi không tìm thấy hứng thú ở nó nữa, nhưng tôi chẳng tiếc nuối vì biết nó chưa đủ dày dặn, mạnh mẽ để có cơ hội sống sót. Lúc đó là mối quan hệ tay đôi, giữa tôi và ý tưởng của tôi, những tác động chung quanh không quan trọng. Tôi có thể trì hoãn viết vì bận những chuyện vặt không tên, mà một bà nội trợ nào cũng phải trải qua mỗi ngày, nhưng rồi sẽ tới lúc thôi, ngồi vào bàn và viết. 

Vậy thường, điều chị nghĩ đến đầu tiên khi hoàn thành một tác phẩm là gì? Và có tác phẩm nào, khi đặt dấu chấm hết, chị cảm thấy hoảng sợ, hay ít ra là có chút bồn chồn, lo lắng?

- Mình không còn ý tưởng nào đang chờ nữa. Lại phải tìm kiếm rồi. Tôi chỉ sợ vậy. Nhưng may là, ý tưởng khác cũng hay nảy ra trong lúc tôi đang đắp da thịt cho ý tưởng này. Trống rỗng thật sự là khi in xong cuốn sách. Tôi thấy mình phải làm lại từ đầu. Mình trắng tay rồi, mình hết sạch, mình phải viết rất nhiều câu chuyện nữa, bày ra một đống chữ nữa, cho cuốn sách tiếp theo.
Cuốn “Cố định một đám mây”.

Chị có thường “kiểm đếm” lại những “đứa con” của mình không? Tính tới thời điểm này, có nhiều lắm không những tác phẩm của chị chưa được công bố?

- Nếu đã có nhiều tác phẩm chưa công bố thì tôi đã không thấy trống trải sau một cuốn sách vừa ra đời rồi. Tôi ngày càng không dư dả vì ngày viết mỗi chậm hơn. Nói rung cảm chai sạn đi cũng đúng, nhưng tôi tự cảm thấy, mình càng khắc nghiệt, đòi hỏi cao, trước hết là với bản thân. Phần khác tôi tự làm khó mình, bởi viết nhiều quá, nhìn đâu cũng thấy mình đã viết rồi.

Còn việc kiểm đếm, tôi không để ý, thiệt tình. Giờ phải ngồi đếm mình đã in cuốn thứ bao nhiêu thì cũng ra con số, nhưng tôi không thích hành động này. Cơ bản tôi thấy chuyện qua rồi tức là qua rồi, của tôi ngày hôm qua sao quan trọng bằng những gì của tôi sắp tới. Tôi quan niệm, những thứ không thể chỉnh sửa thì đừng ngồi đó nhấm nháp hoài, mất thời gian.

Chị có phải tính toán về nơi công bố tác phẩm và thời điểm công bố không? Vì sao cuốn “Cố định một đám mây” lại rời một đơn vị xuất bản quen thuộc với nhiều đầu sách của chị, mà trôi xuôi ra tận Đà Nẵng?

- Thường thì tôi “gả” bản thảo tới những nơi quen biết cũ. Làm việc với những anh chị biên tập viên đã biết ý mình thì đỡ mất công. Tôi cũng không cầu kỳ lắm trong việc sách phải đẹp như thế nào, bìa bắt mắt ra sao. Nhưng, quả là tôi có nghĩ tới chuyện bán sách.  Chuyện “Cố định một đám mây”, vì sao phải lang thang, thì không tiện kể. Tôi không muốn bạn đọc bị mất phương hướng bởi những chuyện không liên quan tới văn chương. 

Nhiều người cho rằng, ở Việt Nam, hiện có nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và nhà văn Nguyễn Ngọc Tư là những người có thể sống khỏe bằng nhuận bút. Một cách thẳng thắn nhất, chị có phải là nhà văn sống được bằng nhuận bút? 

- Tiền dĩ nhiên quan trọng, nhất là với người sống bằng nghề viết như tôi. Nhưng ngoài tiền, tôi còn kiêu hãnh nữa. Và từ khi viết có ý thức hơn, không còn bản năng như xưa, tôi đã bắt đầu chuẩn bị cho cái việc mình không thể sống bằng bán sách. Nhưng người mua sách tôi thích một cô Tư trữ tình ngày xưa hơn là cô Tư lạnh lẽo của bây giờ.

Mới rồi, thấy chị đứng ra tài trợ cho cuộc thi truyện ngắn về phụ nữ: “Một nửa làm đầy thế giới”. Vì sao chị lại “nghiêng về phe nước mắt”?  

- Ồ, dùng chữ tôi tài trợ thì không chính xác lắm. Đó là phần dự án văn chương dành cho phụ nữ, kèm theo giải Liberatureis mà tôi nhận được. Tôi chỉ là nghĩ ra cách dùng tiền (dù không đáng là bao), sao cho hiệu quả nhất. Rồi phát hiện xài tiền cũng khó như kiếm tiền vậy.

Trân trọng cảm ơn nhà văn Nguyễn Ngọc Tư!

HOÀNG THU PHỐ (thực hiện)
Nguồn: Đại Đoàn Kết



Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2019

CÀNH ĐÀO CUỐI CÙNG CỦA VĂN CAO

Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, khắp phố phường Hà Nội lại tràn ngập sắc hoa. Hoa trong quầy, hoa trong quán, hoa bán vỉa hè, hoa gánh trên vai, trên xe đạp, trên xe máy len lỏi vào khắp ngõ ngách của đường phố.
Nhà thơ, nhạc sĩ Văn Cao

Khắp các cửa ô đều trở thành những chợ hoa với hàng trăm loại hoa đua sắc mà không thể kể hết được. Hoa là một nhu cầu, một yếu tố tinh thần không thể thiếu của người Hà Nội trong những ngày Tết. Chơi hoa, chơi cây cảnh là một thú chơi tao nhã và tinh tế từ xa xưa của người Tràng An ngàn năm văn hiến.

Nhạc sỹ Văn Cao là một người yêu thích hoa. Ông còn là họa sỹ, phải chăng vì thế mà ông có phần yêu các sắc màu rực rỡ của hoa mà tạo hóa ban tặng thế gian này hơn những con người bình thường chăng?

Trong nhà Văn Cao luôn có một lọ hoa đặt trên nóc đàn piano tùy theo mùa của các loài hoa. Mùa xuân có hoa lay ơn, mùa hè có hoa sen, mùa thu có hoa cúc… Song có lẽ thứ hoa ông thích nhất là hoa đào, thứ hoa chỉ nở một năm một lần vào đúng những ngày Tết cổ truyền của dân tộc.

Có lẽ vì thế trong nhiều tác phẩm của mình ông đều nhắc đến loài hoa đó. Trong bài “Thiên thai” ông viết “… Thiên thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian, có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần…”.

Hay trong bài “Tiến về Hà Nội”, ta lại thấy“… Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về, như đài hoa xuống cành nở năm cánh đào, chảy dòng sương sớm long lanh…”.

Chính vì thế, cứ đến Tết, dù bận mấy, ông đều đi chợ hoa truyền thống tại phố Hàng Lược, đắm mình trong rừng hoa khoe sắc giữa lòng phố cổ Hà Nôi để quên đi những ngày tháng vất vả lo miếng cơm manh áo.

Len lỏi trong dòng người dòng đời là hình ảnh một nhạc sỹ già thân hình gầy guộc, chống ba toong với đôi mắt sáng, kiên trì chọn mua một cành đào ưng ý nhất…

Tôi còn nhớ cái Tết năm Ất Mùi (1995). Mùa xuân năm đó rét hơn mọi năm. Sức khỏe của cha tôi -Văn Cao đã yếu nhiều nhưng nghe tin cô con gái ở Ba Lan về ăn Tết với gia đình, ông vui lắm.

Đã lâu lắm rồi gia đình chưa có một cái Tết đông đủ con cháu. Sáng 27 Tết, một người bạn mang đến biếu cha tôi cành đào bích to như một cái nơm, nụ hoa nhiều nhưng lá trông không được tươi. Nhìn cành đào, cha tôi có vẻ không ưng lắm.

Một lúc sau ông bảo cậu em tôi đèo lên chợ hoa Hàng Lược. Ông thích chơi đào phai. Với ông đào phai đẹp hơn đào bích vì nó có dáng tự nhiên không bị uốn nắn, lộc lá nhiều, sắc hoa phớt hồng khép nép e lệ như một thiếu nữ bước vào tuổi dậy thì.

Gần trưa mới thấy ông về, trên tay ông là một cành đào bích có thế rất đẹp. Tôi hơi ngạc nhiên hỏi: “Sao năm nay bố lại mua đào bích? Đã có một cành đào bích rồi mà”.

Ông nở nụ cười bảo: “Năm nay rét, đào phai kém lắm. Bố phải tìm mãi mới chọn được cành đào này. Năm nay em Hương nó về, chơi đào bích cho không khí gia đình vui tươi hơn”.

Buổi chiều hôm đó cô em tôi đến. Nhìn thấy hai cành đào, nó reo lên: “Đẹp quá. Bố mua những hai cành cơ à? Con mới về còn mải đi trả quà cho mọi người nên chưa đi sắm Tết được”.

Cha tôi cười: “Bố mua có một cành thôi còn một cành người ta biếu, bố cho con một cành đấy, thích cành nào thì con đem về chơi Tết. Lâu lắm rồi con mới về ăn Tết với gia đình, có cành đào trong nhà thì mới ra không khí ngày Tết”.

Cô em tôi sướng quá, nó cứ tần ngần định chọn cành đào thế cha tôi mua nhưng rồi lại lấy cành đào được biếu vì hiểu rằng cha tôi thích đào thế.

Nhiều năm sống gần gũi Văn Cao, tôi hiểu rõ thú chơi đào của ông. Theo Văn Cao, đào đẹp đầu tiên là ở cái dáng, cái thế của cây, của cành, sau mới là hoa và lá. Muốn hoa đẹp, phải chọn những cành nhiều nụ, nụ to và mập thì hoa mới đẹp, chơi được lâu.

Có những năm, cha tôi chọn được cành đào hoa nở đẹp qua tận rằm tháng giêng. Cành đào cha tôi mua về năm đó quả là rất đẹp, nụ to và nhiều, xen với lá xanh tươi mơn mởn, trên cành mới nở dăm bảy bông hoa to và đỏ thắm. Cha tôi ngắm cành đào và tỏ vẻ ưng ý lắm. Ông  bảo: “Cành đào này nụ nhiều có thể chơi được qua rằm…”.

 Nhà tôi có một cái lọ sành to, cao khoảng 2 gang tay chuyên để cắm đào, tôi đổ nước vào và bê cho cha tôi. Văn Cao lấy cành đào ra, cẩn thận châm lửa đốt cháy một đoạn gốc để hãm hoa nở chậm.

Đặt cái lọ vào một góc phòng khách đối diện cửa ra vào, ông thận trọng cắm cành đào và chèn gốc cẩn thận rồi xoay cho thế của cây đào đúng vị trí đắc địa nhất. Ông sợ nhất những cành đào nở tung tóe, chưa hết Tết hoa đã úa tàn.

Đối với ông nếu năm nào đúng giao thừa sang ngày mùng 1 Tết mà đào nở ra đều khắp các cành thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn.

Bữa cơm chiều 30 Tết đối với dân tộc ta rất thiêng liêng. Nó là bữa cơm hội tụ toàn gia đình, cả năm mới có một lần để tưởng nhớ đến tổ tiên, dòng họ. Nhưng ở gia đình tôi, cha tôi thường mời thêm một số người bạn, họ là những người không có gia đình hoặc vì điều kiện phải sống xa nhà…

Cha tôi bảo: “Bố mời các chú ấy đến ăn tết với gia đình ta cho vui. Không khí ấm cúng, có đông đủ con cháu trong nhà sẽ làm vợi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê, bớt đi nỗi cô đơn trong những ngày Tết. Bố cũng vui hơn vì có bạn uống rượu”. Tôi hiểu lòng cha tôi.

Nhưng Tết năm đó không thấy cha tôi mời bạn. Cả gia đình tôi quây quần bên mấy mâm cỗ, con cháu ríu rít thay nhau chúc sức khỏe ông. Cha tôi vui lắm, có lẽ nhiều năm rồi ông mới lại có được một cái Tết vui vẻ và đầm ấm như thế. Ông ngồi nhấm rượu với mấy miếng pho mát cô em tôi mang từ Ba Lan về. Đôi mắt ông sáng lên, hài lòng nhìn lũ cháu cười nói, ăn uống thoải mái, vô tư…

Đêm 30 Tết cành đào của ông nở bung ra hàng chục bông hoa đỏ thắm. Con cháu đã nhà nào về nhà nấy còn lại mình ông lặng lẽ ngồi nhâm nhi ly rượu, ngắm hoa đào nở, chờ đón giao thừa.

Sáng mồng 1 Tết, mãi gần trưa hai vợ chồng tôi mới lên nhà chúc Tết cha mẹ. Vừa bước vào nhà tôi đã ngẩn người nhìn cành đào. Mới tối qua, cành đào nở đẹp như tranh vẽ, vậy mà sáng nay hoa đã héo rũ.

Cha tôi lặng đi, đôi mắt thoáng một chút thất thần nhìn tôi, ông bảo: “Chốc nữa con mang cây đào ra ngoài sân, đêm nay có hơi sương nó tươi lại thì may”. Lát sau cô em tôi đến, vừa bước vào mồm đã oang oang: “Bố biết không cây đào bố cho con hôm nay nở đẹp lắm, ai cũng khen”. Cha tôi cười nhẹ: “Đào mà nở đẹp vào sáng mồng một thì năm nay số con sẽ gặp nhiều may mắn trong công việc làm ăn”.

Những ngày Tết vui vẻ rồi cũng qua đi, cô em tôi trở về Ba Lan, anh em chúng tôi lại trở về với cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên, tôi vẫn tôi vẫn áy náy về cành đào héo vào đúng ngày mồng một tết của cha tôi.

Sau tết không lâu, lên thăm cha tôi, ông vẫn khỏe, tôi cảm thấy yên tâm. Hai cha con ngồi tâm sự, ông bảo: “Hôm vừa rồi bác Trúc Lâm đến chơi, xem tử vi cho bố. Bác bảo năm nay bố có cái hạn ốm đau, bác dặn bố đừng vào viện”…

Rồi cha tôi cười: Tao mà ốm là mẹ mày bắt đi bệnh viện ngay, ở nhà bà ấy không hầu được… Con người ta có số đấy”.  Mùa xuân năm ấy cha tôi vẫn sống vui vẻ và khỏe mạnh. Ông vẫn đi đây đó thăm thú bạn bè. Tôi cũng quên đi mọi chuyên.

Không ngờ cuối tháng thì cha tôi phải vào Bệnh viện Việt Xô vì bệnh cũ tái phát. Hai tuần sau vào ngày 10-7-1995, ông ra đi, để lại cho gia đình chúng tôi một khoảng trống không thể bù đắp. Cho đến bây giờ cứ mỗi khi tết đến xuân về, anh em chúng tôi lại mang một cành đào đến mộ thắp nhang mời ông về ăn Tết với gia đình, con cháu.

Nhạc sỹ Văn Cao đã ra đi, bỏ cõi trần gian để về với chốn thiên thai - cái cõi Đào Nguyên ấy luôn“… Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần”… Phải chăng, Thiên thai là cõi mơ của Văn Cao.

VĂN THAO
Nguồn: VNCA




Thứ Hai, 14 tháng 1, 2019

CHIỀU MƯA ĐỌC “MỘT NGÀY KHÁC TA” CỦA ĐÀO AN DUYÊN

Một ngày mưa Pleiku. Mưa cả tháng rồi. Chiều lơ đễnh lôi một cuốn sách ra đọc để... giết mưa. Thế mà rồi bị ám ảnh, mà cứ trôi theo những câu thơ của Đào An Duyên trong tập thơ nhỏ tôi vô tình cầm trên tay lúc này: Một ngày khác ta.
Nhà thơ Đào An Duyên

Là bởi thế này, tôi quen cô bé này đã lâu, thấy cô ấy chập chững viết, có đọc và rồi... quên. Chả hiểu sao có hồi Gia Lai có rất nhiều cây bút trẻ xuất hiện, ồn ào có, lặng lẽ có, văn đàn tưng bừng như đây đang chuẩn bị là... trung tâm văn chương. Mà có thế thật, kỳ nào đại biểu được chọn đi dự hội nghị văn trẻ toàn quốc thì Gia Lai cũng chiếm số lượng đông nhất. Nhưng văn chương có những quy luật khắc nghiệt của nó, để những gì còn lại nó là những thứ tinh túy thứ thiệt, còn phù du, còn ảo ảnh, còn bong bóng xà phòng... thì sẽ tan đi dưới mặt trời thôi. Và trong cái náo nhiệt phù du một thưở ấy, Đào An Duyên lặng lẽ đứng bên, an phận một cô giáo dạy văn cấp 2, thi thoảng viết chút, như là một cách nhắc mình có biết... văn chương.

Thế rồi, chả hiểu sao, chỉ mấy năm nay, ào ạt viết. Năm 2016 in tập Ngày đã qua, tập thơ đầu tay và được ngay cái giải khuyến khích của liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, và năm nay ra tiếp Một ngày khác ta, tập thơ khiến ta có thể đọc một mạch không dứt.

Đây là tập thơ nghĩ nhiều. Làm thơ giờ, hoặc là rất hời hợt, hoa lá cành, tâm trạng, buồn vui vu vơ, hoặc là nghĩ như triết gia, cứ toàn lý tính chả thấy cảm xúc đâu. Chả ai cấm, nhất là thời buổi ai cũng mần thơ được, làm thơ trên điện thoại, post trực tiếp lên facebook rồi đủ vài chục bài, cũng in một tập, cũng ì xèo quảng cáo, chả thua gì ai. Đào An Duyên khác, giữ được mạch cảm xúc trữ tình trong trẻo, nhưng vẫn đậm suy tư, vẫn đau đáu với những vấn đề quanh mình, cũng chả hẳn là to tát lắm, nhưng những suy nghĩ trong thơ nó chứng tỏ người viết trưởng thành và có trách nhiệm xã hội, và vì thế mà có sự lan tỏa “Ta  giấu niềm đau vào cỏ/ Cỏ giấu nước mắt vào xanh/ Đi đến ngọn nguồn lau lách/ Đau xưa chưa chỗ giấu mình...” (Với cỏ). “Tháng giêng/ Em vẫn ngồi cạnh những chiều lam khói/ Dòng sông cong vào tháng giêng lưng ong/ Người như chiếc lá vừa nở vào mùa xuân non xanh rừng biếc/ Thương em tự cháy trẻ trai” (Ý nghĩ tháng giêng).
Tập thơ Một ngày khác ta” của Đào An Duyên
         
Cảm xúc cá nhân tất nhiên là hết sức quan trọng của người làm thơ, nhưng nếu không biết tiết chế và “phân bổ” thì nó chỉ đậm đặc cái tôi loanh quanh. Khai thác hết cái tôi được cũng là tốt, nhưng đa phần lại không được thế nên một số tác giả cứ bị cái cảm giác loanh quanh tù túng. Đào An Duyên vượt qua được điều này. Chị có mẹ chia sẻ. Người mẹ quê tần tảo “Con ngủ giấc thị thành mơ bông lúa uốn câu/ Mẹ thắt đáy lưng ong ngồi quạt cho cha mắt ngời hạnh phúc/ Tháng mười về. Dòng sông hiền hòa uốn lượn/ Con soi mình. Soi một giấc mơ xanh” (Mơ giấc trong xanh). Có người cha cựu chiến binh, có vùng quê in đậm tuổi thơ, và có hiện tại. Đây là Pleiku nơi chị đang sống, quen lắm, nhiều người viết lắm, nhưng vẫn riêng, qua chị: “Sương mù ngàn năm trước/ Hẹn dốc ngàn năm sau” (Chiều Pleiku). Cũng như thế, nhiều địa danh khác, nổi tiếng rồi, vào thơ chị vẫn thấy mới, bởi chị chịu khó tìm. Mà cũng không hẳn đã chịu khó, mà cái sự tinh tế, cái sự luôn suy ngẫm, luôn chắt bóp cảm xúc khiến nó... mới “Tựa mình vào dốc vắng/ Chiều gầy như hạc bay/ Chuyện xưa xa vời vợi/ Buồn mãi tận hôm nay” (Với Đà Lạt 3). Giờ nhiều người viết đến đâu là có thơ đấy, cách dễ nhất là... liệt kê địa danh. Thoát ra được điều ấy, tìm ra đặc trưng, bày ra được cảm xúc và phát hiện được hình ảnh mới, ấy mới gọi là thành công.
           
Thơ tình của Đào An Duyên cũng có dấu ấn. Nó không náo nhiệt, cũng không hừng hực. Không cô đơn lạnh lẽo cũng không ân hận trách móc. Nó là trách nhiệm, là chiêm nghiệm, là sự chừng mực nhìn người và nhìn mình, nhưng mà vẫn cứ là thổn thức, vẫn cứ khiến đọc xong ta thấy như... được yêu “Cộng mình vào khuya khoắt/ Thấy thừa ra thật nhiều/ Bàn tay dư dôi thật/ Mãi quờ vào quạnh hiu...” (Cộng). “Em đã đèo cao vực sâu/ Tự vừa vặn mình thác ghềnh đá núi/ Mềm như sông như suối/ Cứng như mầm cây vừa vặn nảy vui buồn/... Em như con bồ câu gù thật nhẹ sợ cả lá rơi/ Để vừa vặn tiếng mưa anh/ Nhưng sao tiếng gù em đau/ Trong tiếng mưa buốt xót” (Vừa vặn em). Cũng có nỗi đau, nhưng nỗi đau như một tiếng thở dài cố nén. Và vì thế mà nó buồn, nỗi buồn đầy chất thơ chứ không lồng lộn hoặc héo quắt “Đừng nhìn mãi cánh cửa ngày đã khép/ Lòng buốt đau. Tiếc một sợi dây gàu/ Em không thấu giếng lòng người thăm thẳm/ Chạm tay vào. Chỉ mùa cũ tươi nguyên./ Tháng mười về lòng như câu thơ bỏ quên/ Câu thơ anh viết ngày chúng mình hạnh phúc/ Câu thơ còn rưng rưng nét mực/ Mà chúng mình xa nhau như mùa ngâu” (Sót lại một chiều ngâu).
           
Đào An Duyên biết sử dụng một cách tài hoa chữ, hình ảnh và tiết chế được cảm xúc để nó nén lại chứ không tãi ra khiến người đọc nhàm. Không phải người viết trẻ nào cũng làm được điều ấy. Chị có nghề và ý thức được việc sử dụng nó để thể hiện trong từng bài thơ nhằm triển khai hết được ý tưởng cũng như cảm xúc của mình, để vừa chặt chẽ mà lại vẫn tung tẩy, không thừa không thiếu. Có những câu thơ rất gợi như ba câu kết của ba khổ thơ trong một bài: “Gầy như sợi tơ vừa non”, “Mùa đông từ đó, một mình”, “Trút hết lá gầy. Mùa đông” (Mùa đông), nó tạo nên một ám ảnh mùa đông rất đặc trưng, rất lan tỏa.

Còn nhiều điều để viết về tập thơ này và cô nhà thơ trẻ này, nhưng tôi nghĩ, cũng như nhiều người khác, đây mới chỉ là những bước đầu. Ngay ở Pleiku này thôi, giờ đây, cũng đã có một số tưng bừng một thưở xếp cánh đâu đó. Đọc câu chữ một thời cứ thấy vang vang giờ như giấy bản gặp mưa Tây Nguyên. Và vì thế mà tôi tin, những lặng lẽ, có phần khép nép, nhưng đầy năng lượng, đầy sáng tạo, đầy đam mê nhưng biết tiết chế của Đào An Duyên sẽ hứa hẹn một cây bút dài hơi của Tây Nguyên, đủ sức đi qua mưa qua nắng Tây Nguyên và cả sự khắc nghiệt sàng lọc của văn chương...

VĂN CÔNG HÙNG
Nguồn: Văn Nghệ số 34/2018

_______________________

Nhà thơ Đào An Duyên sinh ở Thái Bình, hiện là giáo viên ở thành phố Pleiku, Gia Lai.
Hội viên Hội VHNT tỉnh Gia Lai.

Tác phẩm đã xuất bản:

Ngày đã qua (thơ), NXB Hội Nhà văn 2017
- Một ngày khác ta (thơ), NXB Hội Nhà văn 2018

Giải thưởng văn học:

- Giải thưởng Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam 2017




Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2019

THIÊN NHIÊN - NGUỒN CẢM HỨNG BẤT TẬN CỦA VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG ĐÔNG

Từ xa xưa, người phương Đông đã biết dựa vào tự nhiên để sống.Hầu hết các nền văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa đều dựa vào bồi đắp phù sa của các con sông. Nguồn gốc văn hóa nông nghiệp khiến con người học cách sống hài hòa với thiên nhiên, thấymình là một phần không thể thiếu của tự nhiên thanh sạch, thuần khiết. Điều này ánh xạ vào tôn giáo, triết học rồi đi vào văn chương. Đứng trong nguồn mạch chung, thiên nhiên là một mạch ngầm xuyên suốt của văn học phương Đông từ xưa đến nay.
TS. Trần Thị Ánh Nguyệt

1. Từ cội nguồn tư tưởng phương Đông

Văn minh phương Tây không phát xuất từ những vùng đất bồi đắp phù sa màu mỡ, họ sớm phải vươn ra biển, chiến đấu với đại dương bao la nên cách ứng xử với thiên nhiên trong tư duy của họ là chinh phục để phục vụ cho con người. Vậy nên, cảm hứng chủ đạo của văn học phương Tây là ca ngợi con người - con người là thước đo của vạn vật. Ngược lại, từ xa xưa, người phương Đông đã học được cách sống hài hòa với tự nhiên. Thiên nhiên đóng vai trò rất lớn trong đời sống của cư dân nông nghiệp - đó vừa là môi trường vừa là nguồn lợi nhưng cũng vừa là nỗi âu lo. Điều này xuất phát từ cách cảm nhận về tự nhiên từ cổ xưa của người phương Đông về vạn vật hữu linh. Người nguyên thủy dựa vào tự nhiên để sinh sống.Trước sức mạnh của tự nhiên, thái độ của con người là khiếp nhược nên con người tôn sùng tự nhiên, ngưỡng vọng tự nhiên. Theo Trần Lê Bảo, tư tưởng đăng cao xuất phát từ việc những cư dân phương Đông đầu tiên xem vạn vật đều có linh hồn, sinh ra nghi thức tế lễ thần sông núi. Đăng cao ban đầu thể hiện sự khiếp sợ trước tự nhiên, sau này trở thành sự ngưỡng mộ tha thiết với núi sông, trở thành sự gắn bó với tự nhiên[1]. Đó là lí do vì sao ta thấy người phương Đông nào cũng có xu hướng đăng cao: không chỉ người Trung Quốc bước lên đài cao mà các anh hùng Ấn Độ cũng thường hành hương lên núi, người Nhật Bản ngưỡng vọng Phú Sĩ, các nhà sư đều chọn thâm sơn cùng cốc... Khi chọn nơi núi cao, hòa làm một với thiên nhiên khiến cho trong cảm quan phương Đông, sự gắn bó với tự nhiên trở thành máu thịt. Tư tưởng sùng thượng thiên nhiên thấm đẫm từ triết học Lão Trang cho tới triết lí “bất tổn sinh” của người Ấn hay tấm lòng ưu nhã với thiên nhiên của người Nhật Bản.

“Thiên nhân hợp nhất” - tư tưởng Chu Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của văn chương phương Đông. Điều đó khẳng định sự thống nhất giữa con người và tự nhiên, con người là một phần của tự nhiên, giữa con người và tự nhiên có mối liên quan, dung hòa nhau. Lão Tử cho rằng con người gắn với tự nhiên, là một bộ phận không tách rời tự nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”, cho nên mọi vật đều sinh ra từ Đạo, là biểu hiện của Đạo, do vậy trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một. Tự nhiên có trước con người, tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, con người theo quy luật của tự nhiên để hành động cho hợp lẽ “Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự âm thầm diễn ra của các biến cố đời đời kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự vận chuyển uy nghi của tinh tú, đó là cái đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi phiến đá, mỗi ngôi sao, đó là cái luật của vũ trụ, vô tư, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài người phải hành động theo luật ấy nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn” [4, tr.53]. Bởi vậy, người phương Đông thường lựa chọn cách sống hài hòa với tự nhiên để được thanh thản, đủ đầy. Những hình ảnh “áo mỏng”, “dậu thưa” là những phương cách hòa hợp với vạn vật.

Trong các trang sử thi hùng tráng về người anh hùng phương Đông, chiến công trên chiến trận chỉ là một phần của công trạng, mà chủ yếu là cần phải học bài học về sự hòa hợp tự nhiên. Các anh hùng của người Ấn trong hai thiên sử thi vĩ đại Ramayana, Mahabharata trước khi lên ngai vàng trị vì đất nước đều vào sâu trong núi, hành hương về với tự nhiên, học bài học triết lí về nhân sinh bằng cách tĩnh tâm, hòa mình sống với thiên nhiên. Trước khi trở thành đấng Giác Ngộ, Đức Phật đã trải qua kiếp sống không chỉ là con người, thần linh mà còn là chim chóc, muông thú để có thể hiểu về cuộc đời của muôn loài bình thường, với đủ mọi quan hệ thế tục. Đấng minh quân Trần Nhân Tông sau khi thực hiện xong việc thế sự, xuất gia vào núi sâu để được trong sạch, giác ngộ tràn đầy. Thiên nhiên, do đó là người thầy minh triết vĩnh cửu trong tâm thức của người phương Đông.

2.  Tình yêu với sinh mệnh tự nhiên

Trong tâm thế của người phương Đông, người ta thấy một tâm hồn đối với thiên nhiên rất sâu nặng. Trong khắp các trang viết, không chỉ thấy vẻ đẹp của cảnh vật mà còn thấy một tấm lòng tha thiết với cảnh vật.Đó là tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên vô tận, với vẻ đẹp tráng mĩ, hùng vĩ của núi cao vực sâu, cũng có thể là vẻ giản dị, gần gũi của nhành hoa, ngọn cỏ, con cò, con ếch, con dế...Mỗi tâm hồn Đông phương đều đồng cảm trước tấm lòng nghe thấy tiếng gió mưa ngoài cửa mà xót xa cho thân phận mỏng manh của cánh hoa rơi rụng (Dạ lai phong vũ thanh/ Hoa lạc tri đa thiểu– Nửa đêm nghe tiếng mưa/ Hoa rụng nhiều hay ít – Mạnh Hạo Nhiên); mỗi tâm hồn Đông phương đều xem thiên nhiên như là người tri kỉ (Cửbôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân– Nâng chén mời trăng sáng/ Mình với bóng là ba – Lý Bạch), như là gia đình thương mến (Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/ Ấp ủ cùng ta làm cái con– Nguyễn Trãi); mỗi tâm hồn Đông phương đều nâng niu vẻ đẹp giao hòa giản dị của thiên nhiên bình dị (Một cành bìm bìm hoa tía/ Quấn quanh cây cầu/ Ta sang hàng xóm xin nước thôi- Chiyo), đều xúc động trước những sự việc rất tầm thường của vạn vật (Lá chuối xanh trôi/ Một con ếch nhỏ/Run run đang ngồi -Kikaku)

Chỗ “vô ngôn” của thơ Thiền thường là sự im lặng vĩnh cửu của tự nhiên. Chính cái không lời vĩnh viễn ấy mới thấu biết được mọi lẽ trong cõi hiện sinh đầy mệt nhọc này. Bởi vậy, tràn lấp trong các trang thơ Thiền là vẻ đẹp của hoa cỏ núi sông, là nhành mai cao khiết (Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai – Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một nhành mai), là đôi bướm vui tươi trong một buổi sáng mùa xuân (Nhất song bạch hồ điệp/ Phách phách sấn hoa phi - Song song đôi bướm trắng/ Phấp phới cánh hoa bay - Trần Nhân Tông), hay là cảnh chiều muộn của ngôi chùa xưa (Cổ tự thê lương thu ái ngoại/ Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ – Chùa xưa lạnh lẽo khói thu mờ/ Chiều quạnh thuyền câu, chuông vẳng đưa – Trần Nhân Tông) hoặc cảm giác an nhiên viên mãn đủ đầy giữa tự nhiên khoáng đạt (Ngư ông thụy trước vô nhân hoán/ Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền – Ông chài ngủ tít ai lay/ Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền – Không Lộ thiền sư)...

Bước sang thế kỉ XX, người đọc vẫn nhận ra cốt cách gần gũi thiên nhiên của tâm hồn Đông phương trong các tác phẩm dù cho trong dòng chảy hợp lưu Đông – Tây, người phương Đông phần nào đã bỏ rơi thiên nhiên. Nhưng niềm ưu ái với thiên nhiên có lẽ chưa bao giờ ngừng trong văn chương phương Đông từ cổ xưa đến hiện tại, nó vẫn âm ỉ chảy trong một dòng mạch thông suốt. Bằng chứng là qua các tác giả đạt giải Nobel như Kawabata hay Mạc Ngôn, ta thấy một tâm thế phương Đông rất nặng “thiên nhiên cũng có sinh mệnh riêng của nó” [11, tr.5], người đọc vẫn thấy những cánh đồng trù mật, những rặng núi mù xa, những vườn anh đào, những dòng sông thao thiết chảy qua những trang văn.

Để thấy được vị trí của thiên nhiên quan trọng như thế nào trong văn học phương Đông, chúng ta thử so sánh với văn học phương Tây. Ngay khi cùng viết về tự nhiên, nhưng điểm khác biệt cơ bản của phương Đông và phương Tây là người phương Đông xem thiên nhiên như là một sinh mệnh độc lập “cỏ cây quanh mình và cả bò dê nữa đều có thể trò chuyện với con người, chúng chẳng những có sinh mệnh, mà còn có cả tình cảm nữa” [11, tr.5], trong khi đó dù ca ngợi tự nhiên, cảm hứng chủ đạo của người phương Tây vẫn là xem thiên nhiên là nền cảnh để làm nổi bật con người. Bởi thế, khi A. Daudet  mô tả bầu trời sao tuyệt đẹp là ông muốn làm nổi bật hình ảnh con người: tất cả những vì sao lung linh trên trời kia là nền cảnh cho vẻ đẹp của con người trên đồng cỏ và trong tâm hồn cậu bé chăn cừu, không có vì sao nào đẹp bằng vì sao kiều diễm, sáng trong đang thiếp ngủ trên vai của cậu “tôi tưởng đâu một trong những ngôi sao kia, ngôi sao thanh tú nhất, ngời sáng nhất lạc mất đường đi đã đậu xuống vai tôi mà thiêm thiếp giấc nồng” [3, tr.254].

Để chứng minh rõ hơn cho luận điểm này, chúng ta thử so sánh cách cảm nhận về một hình tượng tự nhiên: hình tượng sói. Ở các tác phẩm của J. Lodon (Tình yêu cuộc sống, Tiếng gọi nơi hoang dã), cảm hứng chủ đạo là chinh phục tự nhiên, trong khi ở Tôtem sóicủa Khương Nhung là cảm hứng mãnh liệt về triết lí tôn trọng tự nhiên.

Tình yêu cuộc sống là bài ca về ý chí, nghị lực của con người. Câu chuyện kể về cuộc chiến đấu của một người đào vàng bị thương, bị bỏ đói nhiều ngày trong giá lạnh của vùng Bắc cực với một con sói già nua ốm yếu: “hai sinh linh kéo lê thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ và bên nọ rình cướp sự sống của bên kia” [6, tr.26], đi đến giới hạn sức chịu đựng của thể chất mà vẫn chiến đấu ngoan cường. Và dù cả hai vét đến hơi thở cuối cùng để dành sự sống thì chiến thắng vẫn thuộc về con người “Hai bàn tay không đủ sức để bóp nghẹt con sói nhưng mặt người áp sát vào họng con sói và mồm con người đầy những lông. Hết nửa giờ, con người nhận thấy một dòng âm ấm chảy vào họng mình” [6, tr 28]. Trong Tiếng gọi nơi hoang dã, con người bắt sói phải phục tùng hoặc bằng “luật dùi cui và răng nanh” hoặc bằng tình yêu thương. Dù cho đó là hai cách trái ngược nhau thì vẫn là khát vọng chinh phục tự nhiên. Trong khi đó hình tượng sói trong Tôtem sói (Khương Nhung) hoàn toàn khác biệt. Sói sống hoang dã, tự nhiên như bản tính của nó, con người không bao giờ có thể chinh phục được. Nếu như Bấc yêu quý Giôn Thóctơn với một tình cảm quyến luyến, quỵ lụy, yêu thương xen lẫn phục tùng “Bấc thấy không có gì sung sướng bằng được cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rủa rủ rỉ bên tai ấy, và mỗi cái lắc qua đảo lại, nó tưởng chừng như quả tim mình muốn nhảy tung khỏi lồng ngực vì quá ngây ngất, rạo rực” [6, tr.307], thì dù Trần Trận nuôi sói con từ nhỏ, yêu thương chăm sóc bằng cả tấm lòng, đem hết tâm huyết, sức lực, tình cảm, thậm chí cả tính mạng nhưng con sói vẫn sống với bản tính hoang dã của nó, không bao giờ chịu thuần phục. Bởi thế, tộc du mục sống trên lưng ngựa lại thờ phụng sói (chứ không phải là ngựa) vì “logic trái khoáy này lại bao hàm sâu sắc logic của thảo nguyên (...) con sói thảo nguyên thì chưa bao giờ bị thuần dưỡng” [7, tr.537]. Người thảo nguyên thờ phụng sói cũng còn vì một lí lẽ lớn hơn nhiều nữa – sói là nhân tố điều hòa môi trường sinh thái. Sói thống soái tự nhiên, đứng trên tầm cao mà điều phối các mối quan hệ chồng chéo của tự nhiên, sói cân bằng sinh thái trên thảo nguyên: diệt chuột, rái cá, dê vàng, ngựa, cừu, thậm chí cả con người – những kẻ phá hoại không thương tiếc thảo nguyên. Theo họ “cỏ và thảo nguyên là sinh mạng lớn, tất cả những thứ khác là sinh mạng nhỏ: sinh mạng nhỏ sống nhờ sinh mạng lớn” [7, tr.482]. Như vậy, sói là chủ thể của tự nhiên, giữ gìn và cân bằng môi trường tự nhiên, bảo vệ vẻ đẹp thuần khiết của thảo nguyên trước những can thiệp thô bạo.

3.  Thiên nhiên – biểu tượng cơ bản của thơ ca phương Đông

Phương Đông huyền bí có thể coi là vương quốc của thơ ca, nhân loại vẫn mãi ngưỡng vọng Đường thi, Haiku như là những di sản tinh thần vĩ đại. Cảm xúc trong thơ trữ tình hư huyền, khó nắm bắt, thi nhân thường mã hóa cái thế giới huyền hồ sương khói ấy bằng những hình ảnh tự nhiên: nỗi nhớ nhà bảng lảng khói sóng hoàng hôn (Hoàng hạc lâu– Thôi Hiệu), thiếu phụ nhớ chồng trách con chim oanh (Xuân oán– Kim Xương Tự), nhìn nhành liễu biếc tiếc tuổi xuân qua (Khuê oán– Vương Xương Linh )… 

Thơ Haiku của Nhật Bản mặc dù số chữ rất ít ỏi, vỏn vẹn chỉ có 17 âm tiết nhưng vẫn dành cho tự nhiên một chỗ đứng trang trọng. Một bài thơ Haiku phải thể hiện được cảm thức về thời gian qua quý ngữ (kigo). Quý ngữ có thể là từ miêu tả các mùa xuân, hạ, thu, đông hoặc là các hình ảnh, hoạt động mang đặc trưng của mùa, biểu hiện những bước đi của thời gian bằng những hình ảnh của cảnh sắc cây cỏ, ví như mùa thu – con quạ(Trên cành khô/ cánh quạ đậu/ chiều thu- Basho), mùa đông – mưa gió (Mưa đông giăng đầy trời/Chú khỉ con đơn độc/ Cũng mong chiếc áo tơi - Basho), mùa xuân – anh đào nở rộ (Từ phương trời xa/ cánh hoa đào lả tả/ gợn sóng hồ Bi-wa- Basho), mùa hạ - ánh trăng (Con mực trong bẫy/nằm mộng phút giây/mùa hạ trăng đầy – Basho). Việc dùng quý ngữ chỉ mùa thể hiện tâm hồn nhạy cảm với sự thay đối của thiên nhiên, có cảm quan tinh tế về thời tiết, sự gắn bó sâu sắc của người Phù Tang với tự nhiên.

Các thi sĩ Thiền gia cũng quay trở về thiên nhiên, biểu hiện cái “tâm không” bằng tâm hồn rỗng rang hòa điệu cùng vũ trụ, cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên. Tư Không Đồ, người mở đầu cho thi học Thiền gia đã viết trong bài Nhàn dạ: Thử sinh nhàn đắc dịch vi gia/ Nghiệp thị ngâm thi dĩ khán hoa (Cuộc đời nhàn nhã lấy xê dịch làm nhà/ Nghề nghiệp là ngâm thơ và xem hoa). Trần Nhân Tông trả lời môn đệ câu hỏi “Thế nào là gia phong hòa thượng?” bằng câu thơ: Áo rách ôm mây, ban mai húp cháo/ Bình xưa dốc nguyệt, trời khuya nấu trà. Đối với thi nhân Thiền gia, sự hòa hợp trong tâm hồn được biểu hiện trong sự hòa điệu với tự nhiên. Và đôi khi, sự tương thông của lòng người với nhau không phải qua lời nói bề ngoài ồn ào mà sự tương giao ấy biểu hiện qua cái tĩnh lặng say mê với cảnh vật:

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi
(Xuân cảnh- Trần Nhân Tông)
Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây

(Huệ Chi dịch)

Hai tâm hồn nhập vào nhau không cần bằng lời nói hoa mĩ, ồn ào mà chỉ bằng một cử chỉ thật giản dị là lặng ngắm khung cảnh về chiều rộn rã tiếng chim và rợp bóng mây.

Mặc dù thơ điền viên với thơ sơn thủy cùng chung đối tượng thẩm mĩ là cảnh sắc thiên nhiên, nhưng điểm khác biệt lại ở chỗ thơ điền viên gần gũi với cuộc sống của con người hơn. Sơn thủy hướng đến núi cao vực sâu ngàn dặm, điền viên gần gũi với “ao rau muống”, “lảnh mùng tơi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm); cảnh sắc giản dị, gần gũi của cây hòe, cây chuối, cây lựu, hoa sen, hoa xoan... (Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi). Nguyễn Khuyến được coi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” có lẽ bởi thơ ông thể hiện cảnh sắc và sinh hoạt nông thôn gần gũi và thân thiết. Có thể nói, ông đã mở ra cho thơ ca Việt Nam trường phái thơ điền viên mà sau này thơ Mới sẽ tiếp tục với những tác giả xuất sắc như Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Nguyễn Bính…

4. Thiên nhiên – Nơi cứu rỗi tâm hồn Đông phương

Con người từ trời đất sinh ra. Sự sinh tồn của con người không thể tách khỏi trời đất nên hành vi con người cũng tương thông, nhất trí với sự vận hành của trời đất: “Con người là sản vật của tự nhiên, cũng là một phần của tự nhiên, mà sự sinh tồn và phát triển của con người là lấy các điều kiện vật chất do tự nhiên cung cấp làm tiền đề” [5, tr.215].Bởi vậy, học cách sống hài hòa, phù hợp với quy luật phát triển sẽ khiến cho con người cảm thấy hạnh phúc. Đạo gia coi trọng sự thuần phác, tự nhiên. Triết lí “vô vi” của Lão Tử nghĩa là “không làm gì” trái với tự nhiên (Đạo). Lão – Trang chủ trương xa rời những hệ lụy của cõi đời, sự phiền nhiễu của ý chí, dục vọng để được tự do, tự tại trong bản chất tự nhiên thuần phác. Kêu gọi về với thiên nhiên là một phương cách để nuôi dưỡng cái bản tính tự nhiên thuần phác đó (Đạo pháp tự nhiên). Do vậy ứng xử của các nhà Nho truyền thống là “dụng chi tắc hành, xả chi tắc hàng” (Dùng thì ta hành đạo, không dùng thì ta quy ẩn). Quy ẩn bằng cách trở về với thiên nhiên để tìm lại sự bình an, tĩnh tại, tự do. Thiên nhiên trở thành điểm tựa tinh thần trong cơn bĩ cực, thiên nhiên nuôi dưỡng cái phần thiên tính chất phác của con người khỏi những phồn tạp, tị hiềm, ganh ghét, trói buộc chốn quan trường.Hầu hết cách ứng xử của thi nhân thời trung đại Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam… là sống gần gũi tự nhiên. Khi con người xã hội bất như ý họ thường đi ở ẩn, một hình thức xa lánh xã hội nhiêu khê, trở về với thiên nhiên để quên nỗi buồn thế sự. Nhà nho nhàn dật có khuynh hướng vui với cây cỏ, chối từ con người lí trí, rũ bỏ áo khoác xã hội để hòa mình vào thiên nhiên xa lánh cảnh trầm luân, nhiễu nhương của thế sự. Bởi vậy, từ Khuất Nguyên, Đào Tiềm cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến… do mệt mỏi với quan trường ganh ghét, lòng người hiểm độc đã “quy khứ lai” - trở về với mây trắng núi ngàn để xoa dịu, thanh thản. Những vần thơ ca ngợi hoa cúc của Đào Tiềm, những vần thơ “tìm nơi vắng vẻ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay tư tưởng sùng thượng tự nhiên của Nguyễn Trãi đều thể hiện một tư tưởng sống khiêm nhường, ẩn dật và hòa hợp vào “dòng sống thâm áo của thiên nhiên”. Đối với kẻ sĩ phương Đông, có lẽ tiền tài, danh vọng, chức tước không phải là mục đích của sự sống mà việc con người trở về với cõi thiên nhiên, với bản thể của vũ trụ mới là mục đích chân chính nhất. Phò vua giúp đời chỉ là nghĩa vụ trong chốc lát còn tâm thế họ vẫn hướng về tự nhiên sâu thẳm trời xanh mây trắng vĩnh cửu muôn đời. Phải vậy chăng mà Lí Bạch tâm sự:

Đãi ngô tận tiết báo minh chủ
Nhiên hậu tương huề ngọa bạch vân
(Chờ ta tận tiết báo đền ơn minh chủ
Sau đó sẽ cùng nhau về nằm nơi mây trắng)

(Tặng Trương Tương Cảo- Lí Bạch)

Sự hóa thân vào tự nhiên để được gột rửa là motif quen thuộc trong văn chương phương Đông. Chỉ khi hòa nhập vào tự nhiên con người mới thấy thanh thản, bình yên, tĩnh lặng; được cứu rỗi khỏi những muộn phiền, hệ lụy của đời sống phồn tạp. Người Ấn Độ từ cổ xưa đến nay đều thực hành nghi lễ tắm nước sông Hằng vì quan niệm nước sông có thể thanh tẩy; họ cũng cho rằng thần lửa Anhi thiêu cháy tất cả để trở nên trong sạch. Vậy là, trong tâm thức Ấn, thiên nhiên có thể gột rửa được tội lỗi, khiến con người có thể trở nên thanh khiết. Trước thái độ hờn ghen của Rama, Sita đã hai lần chứng minh tấm lòng nàng, lần thứ nhất là với thần lửa Anhi, lần thứ hai xin được trở về đất mẹ, hóa thân vào luống cày, nơi mà cô đã sinh ra. Môtip hóa thân vào tự nhiên được thể hiện trong văn học phương Đông qua rất nhiều dạng thức khác nhau: có thể là sự rẽ nước xuống biển của An Dương Vương, là hành động bay về trời hóa vào vĩnh cửu của Thánh Gióng, có thể là sự hóa thân trở lại thành cây Giáng Châu của Lâm Đại Ngọc dứt khỏi mối sầu muộn ở dương thế... Trong văn học hiện đại, sự hóa thân vào tự nhiên ấy được biểu hiện qua motif hòa nhập vào tự nhiên, buông thả mình theo tự nhiên tách mình ra khỏi cái ồn ào đô thị để sống thanh thản. Đó là một trong những chủ đề cơ bản của văn học lãng mạn, là khuynh hướng “ngược về ngoại ô” để thả mình vào hương đồng cỏ nội của văn học đương đại - thái độ lánh mình vào tự nhiên của con người thời hiện đại bị bao bọc bởi văn minh kĩ trị.

Tự muôn đời, thiên nhiên luôn là nguồn an ủi. Mỗi khi thấy lòng đau, lại tìm về tự nhiên như một bến bờ tĩnh lặng để nguôi quên. Thiên nhiên là người bạn lớn vĩnh hằng của con người mà ở đó, những muộn phiền, day dứt, đau đớn vơi đi. Thấu được nỗi chán chường cuộc sống ồn ào quanh mình, chỉ có tự nhiên vĩnh cửu không lời là vĩnh viễn.

5.  Nỗi trăn trở sinh thái thời hiện đại

Thorber, một nhà nghiên cứu phê bình sinh thái của Đại học Havard đã khẳng định mặc dù khuôn mẫu của Đông Á là tình yêu thiên nhiênnhưng hiện tại,“Đông Á đã là nơi  của một số các vấn đề và các cuộc khủng hoảng môi trường khó khăn nhất trên thế giới” [10].Trong xã hội hiện đại, do ỷ lại vào khoa học kĩ thuật nên người phương Đông đang ngày càng quay lưng với tự nhiên, khai thác tự nhiên quá mức khiến cho tự nhiên ngày càng vắng bóng trong đời sống. Mặt khác, trong một thời gian dài, văn học phương Đông mải chạy theo những vấn đề thời thượng của cõi người như tính dục, thân thể, đạo đức, phê phán xã hội… nên dường như người phương Đông đang bỏ rơi mất truyền thống hòa hợp tự nhiên.

Trước tình trạng khủng hoảng của môi trường sinh thái, các thảm họa, thiên tai và đáng sợ hơn cả là sự biến mất của chính thiên nhiên, người phương Tây – kẻ luôn giương cao lá cờ chinh phục thiên nhiên – nhìn nhận lại thái độ ngạo mạn của mình. Văn học sinh thái xuất hiện và đặt ra vấn đề tranh luận: có phải con người sinh ra để thống trị thiên nhiên – làm chủ và sở hữu thiên nhiên? Hay là những phát minh khoa học, sự ngạo mạn của con người đã đẩy thiên nhiên ra xa khỏi con người và con người đang gánh chịu những hậu quả do chính mình gây ra vì đã coi thường tự nhiên? Thiếu vắng thiên nhiên, tâm hồn con người trở nên xơ cứng, lạnh lùng, vậy nên cần phải trở về với tự nhiên, bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái. Như vậy, văn học sinh thái phương Tây đã tìm lại giúp người phương Đông tâm hồn hòa nhập tự nhiên, tình yêu đối với thiên nhiên mà những hệ lụy của đời sống đô thị đã khiến họ có lúc xao nhãng.

Người phương Đông sau khi “trải qua một cảm giác lịch sử: cảm giác thiếu thiên nhiên” [8, tr.399], đã trở lại với các đề tài tự nhiên, nhưng không phải chỉ để thể hiện tình yêu đối với thiên nhiên mà còn thể hiện một niềm khắc khoải với những nguy cơ sinh thái, bày tỏ nỗi đau đớn vì những vẻ đẹp tự nhiên ngày một biến mất… Thức tỉnh tinh thần sinh thái, từ các tác phẩm của văn học Trung Quốc: Hoài niệm sói của Giả Bình Ao, Tôtem sóicủa Khương Nhung, tản văn Tôi yêu động vật nhỏcủa Băng Tâm…, cho đến Bộ sưu tập những bài thơvề bomnguyên tửtập hợp 181tác giả của văn học Nhật Bản, cho đến những ý tưởng sinh thái của các tác giả Việt Nam (Sống mãi với cây xanh– Nguyễn Minh Châu; Muối của rừng, Con thú lớn nhất, Sói trả thù– Nguyễn Huy Thiệp; Khói trời lộng lẫy, Nước như nước mắt– Nguyễn Ngọc Tư; Thập giá giữa rừng sâu– Nguyễn Khắc Phê; Chuyến đi săn cuối cùng– Sương Nguyệt Minh…) cũng đã rung lên những hồi chuông về sự khủng hoảng môi trường, những nỗi đau, niềm tuyệt vọng trước cái mong manh của sự cân bằng tạo hóa và cắt nghĩa căn nguyên của những thảm họa sinh thái.

Cảnh tỉnh con người về mối quan hệ của con người với tự nhiên, đặt con người trước những thảm họa khi đánh mất tự nhiên, như một lẽ tất yếu, phương Tây dường như đi tìm lại tâm thức tự nhiên mà từ lâu họ đã đánh mất, tìm về phương Đông để nối lại các mạch sống tự nhiên của họ.

Như vậy, từ xưa đến nay, thiên nhiên đối với người phương Đông không phải là một chuỗi dài chinh phục mà là sự gắn bó, hài hòa. Mỗi tâm hồn phương Đông đều có một tình yêu vĩnh cửu với cỏ cây. Phương Đông đang tìm cách quay trở về với những giá trị vĩnh hằng của thiên nhiên, tìm lại chính quá khứ ngàn đời của mình – tâm thức hòa hợp với tự nhiên. Bằng cách đó, phương Đông đã giữ gìn cho nhân loại khỏi trượt xa cách cư xử lí trí, ngỗ ngược đối với tự nhiên.

TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.        Trần Lê Bảo (2011), “Đăng cao – Một truyền thống văn hóa phương Đông”, Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.        Lê Nguyên Cẩn (2000), “Cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Lão Tử và J. J. Rousseu”, Đạo gia và văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin.
3.        A. Daudet (2011), Những vì sao – Chuyện chàng chăn cừu xứ Prôvăngxơ, Nxb Hội Nhà văn.
4.        Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn hóa Thông tin.
5.        Phạm Minh Hoa, Lưu Cương Kỉ (2002), Chu Dịch và mĩ học, Nxb Văn hóa - Thông tin
6.        Jack London (2011), “Tiếng gọi nơi hoang dã”, Jack London - Truyện ngắn đặc sắc, Nxb Hội Nhà văn.
7.        Khương Nhung, “Tôtem sói”, http://vnthuquan.net
8.        Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa,Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9.        Lão Tử (1991), Đạo đức kinh, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, Nxb Văn học.
10.     Karen Thronber,Ecocriticism and Japanese Literature of the Avant-Garde, http://interlitq.org/issue8/karen_thornber/job.php
11.     “Văn học phải làm cho con người tin nhau hơn”(Đối thoại đầu năm giữa Oe Kenzaboko với Mạc Ngôn), Báo Văn nghệ,(12), ngày 23-03-2002.

Nguồn: VHNA



BÀI MỚI ĐĂNG

NGUYỄN PHAN QUẾ MAI - HÃY NÓI VỀ CUỘC ĐỜI

Xe vút đi trên những con đường cao tốc, còn tôi thì ngồi đó, lặng người trong giai điệu trầm bổng của Khúc Thụy Du. Mùa hạ California nở bun...