[Đọc sách "Chuyện một người đàn bà năm
con" của Lê Khắc Thanh Hoài].
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện
[1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về
anh đã nhiều lầm lạc. Người viết: anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người
Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết: anh không hề có một mảnh
bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết học Viện Đại học Sorbonne, mười
lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học,
hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa học Nhân văn, Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai? Dạy Triết
học tại một Đại học Pháp mà không cần một văn bằng nào?
Nhà thơ Phạm Công Thiện
Đâu là sự thật, đâu là huyền thoại?
Được chị Lê Khắc Thanh Hoài tặng cho quyển tiểu thuyết đầu
tiên của chị: Chuyện một người đàn bà năm con,
tôi đọc say mê, với lối văn giản dị trong sáng tôi đọc một mạch, tôi không ngờ
chị viết hay và hấp dẫn như thế về cuộc đời khổ đau gian truân của chị với một
thi nhân, triết gia mà thời niên thiếu tôi đã từng say mê - tác giả Ý
thức mới trong văn nghệ và triết học, Phạm Công Thiện.
Sách trang bìa hình tháp Eiffel Paris, nơi xảy ra câu chuyện và bức chân dung chị
Lê Khắc Thanh Hoài ký tên Phạm Công Thiện vẽ, ngày anh tỏ tình
cùng chị, chị không dấu tên người bạn
đời. Người đàn bà có năm con cùng triết gia, nhà thơ Phạm Công Thiện
(1941-2011) kể lại cuộc đời mình dẫn nhập bằng cuộc đối thoại với cháu
ngoại, mừng sinh nhật bà, trao phong bì: một bài thơ bằng tiếng Pháp và lì xì: 10
Euro cho bà, vì thấy bà ngoại nghèo quá thật là dễ thương, ngộ nghĩnh và cảm động. Từ đó chị kể lại cuộc
đời mình qua 13 năm sống chung. Thời gian mà anh sang Pháp năm 1970, từ
bỏ áo nhà tu Thích Nguyên Tánh và sau năm 1985 anh sang Mỹ cư ngụ tại Los
Angeles và qua đời tại Houston.
Tuổi học sinh Trung học, tôi say mê khi đọc Phạm Công Thiện,
tôi biết về thơ Appolinaire, Rimbaud, Pierre Emmanuel… về các triết gia mới Tây
Phương qua anh.
Bây giờ thì tôi viết về anh qua truyện kể của chị Thanh
Hoài, nhìn anh qua những vidéo các buổi nói chuyện của anh. Tôi muốn tìm hiểu
cuộc đời Hiện tượng Phạm Công Thiện, một thời làm mưa làm gió tại miền Nam những năm 1966-1970. Và dư âm những mưa
gió ấy tại Hải ngoại từ 1970 đến năm 2011. Tôi muốn hiểu Phạm Công Thiện là
ai? Anh là một thiên tài
thần đồng, hay một Trạng Quỳnh của một thời?. Những kiến thức anh lấy từ
đâu? Nguyên do gì
anh đã mê hoặc cả một thế hệ tuổi trẻ miền Nam trong thời điểm đó. Đâu là sự thật
của đời anh, đâu là huyền thoại do anh và mọi người thêu dệt. Những người Phạm Công Thiện quen biết tôi đều có dịp gặp gỡ:
từ chùa Hải Đức Nha Trang, đến Paris, đến Viện Đại học Vạn Hạnh: Họa sĩ Vĩnh Ấn, nhà thơ Thi Vũ Võ
Văn Ái, nhà thơ Nhị Tay Ngàn đến Hoà
thượng Minh Châu - Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Thiền sư Nhất Hạnh, chị Thanh
Hoài người bạn đời từng chung sống với anh 13 năm, và có 5 con với anh.
Chị Thanh Hoài
sinh năm 1950 tại Huế, con một vị bác sĩ nổi tiếng tại Huế trong Phong Trào
tranh đấu Phật giáo miền
Trung, năm 1963 từng bị tù dưới chế độ Ngô Đình. Năm 1969 chị học
Triết học Đông Phương tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Năm 1970 chị lên đường sang
Bruxelles du học. Gặp và kết hôn với Phạm Công Thiện tại Paris. Chị Thanh
Hoài còn là một nhạc sĩ đàn dương cầm,
từng học Trường Quốc gia
Âm nhạc Huế, tác giả nhiều
CD, và hàng trăm nhạc phẩm.
Trước nhất
Phạm Công Thiện là một nhà thơ: tập Ngày sinh của rắn in năm
1988, có những bài thơ đẹp, và lạ lùng:
VI: Tôi
chấp chới/ đắng giọng/ giữa tháng ngày mơ mộng, nốt ruồi của hương/ hay nốt ruồi
của rigvêda/ tôi mửa máu đen/ tôi mửa đêm paris/ tôi giao cấu mặt trời sinh ra
mặt trăng/ tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người/ cho quế hương nằm ở nhà
thương điên trí nhớ/ mặt trời có thai/mặt trời có thai/ sinh cho tôi một đứa
con trai mù mắt.
VIII: Mười
năm qua gió thổi đồi tây/ tôi long đong theo bóng chim gầy/ một sớm em về ru giấc
ngủ/bông trời bay trắng cả rừng cây/ gió thổi đồi tây hay đồi đông/ hiu hắt quê
hương bến cỏ hồng/trong mơ em vẫn còn bên cửa/ tôi đứng bên đồi
mây trổ bông/gió thổi đồi thu qua đồi thông/mùa hạ ly hương nước ngược dòng/tôi đau trong tiếng gà
xơ xác/một sớm bông hồng nở cửa
đông.
Anh nổi tiếng
thần đồng, 15 tuổi đã công tác viết bài cho tạp chí Bách Khoa, một tạp
chí nổi tiếng giới trí thức miền Nam thời bấy giờ, anh thông thạo 5, 6 ngoại ngữ,
một quyển sách anh được Nguyễn Hiến Lê giới thiệu. Nguyễn Hiến Lê là một học giả
tự học viết khoảng 60 quyển sách từ sách: Tự học làm người, Rèn luyện nhân cách, đến Triết Học Trung Hoa.
Một kiến thức đáng kính phục. Có lẽ Phạm Công Thiện đã học phương pháp tự học và làm việc của học
giả Nguyễn Hiến Lê. Muốn học một ngôn ngữ, học bằng cách dịch quyển sách mình ưa thích, mỗi ngày đều đặn, chỉnh tề, ngồi
vào bàn viết… lúc đầu khó khăn, sau thành thói quen viết dễ dàng nhanh chóng.
Tôi hiểu anh không nói ngoa, anh đã viết 20 quyển sách thời niên thiếu
và đốt đi. Đó là cách tập luyện viết sách, đọc một quyển sách mình mô phỏng
theo, viết một quyển tương tự, ban đầu
mình chịu ảnh hưởng nhiều từ
từ mình tạo ra một phong cách riêng, tiến đến một sáng tạo hoàn toàn.
Anh giỏi tiếng Pháp. Anh có tài dịch thơ lưu loát và quyến rũ. Anh đọc các triết gia Tây
Phương và các Thiền sư Phật giáo và diễn tả lại gọn gàng dễ hiểu. Anh đáp ứng được nhu cầu giới trẻ
đương thời đang muốn mở ra tiếp xúc với Tây Phương, nhưng không đủ vốn liếng
ngôn ngữ để đọc trực tiếp bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Kiến thức văn chương Tây
Phương từ sau cuộc tiếp xúc với Văn chương lãng mạn thời Thơ Mới với Baudelaire, Edgar Poe... các Triết gia Hiện Sinh, hiện đại như thế
nào? Anh đáp ứng được một nhu cầu muốn tìm hiểu của đương thời. Thuở còn
học sinh Trung học tại Phan Thiết, tôi và anh Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ, thường gặp nhau bàn về những điều Phạm
Công Thiện viết. Trong không khí ngột ngạt của chiến tranh Việt Nam, thân phận
thanh niên rồi sẽ đi lính, rồi sẽ chết trên chiến trường như bao bạn bè. Trong
không khí thành thị miền Nam thời đó, thanh niên cần một lối thoát ra khỏi
không gian tù túng, mơ ước một chân trời khác, đọc được Phạm Công Thiện hay Bùi
Giáng tên tuổi các triết gia Hy Lạp, triết gia bên Tây tên tuổi nghe mù mờ, có
người tóm lược giảng giải nên lấy làm thích thú. Lâu lâu lại khen chữ nghĩa,
tâng bốc văn hóa Việt Nam, làm hừng chí tự ti dân tộc. Phạm Công Thiện nổi
danh trên mảnh đất trống tư tưởng đó.
Phạm Công Thiện
là một người quyến rũ, có sức thôi miên người đối thoại. Chị Thanh Hoài viết tr.167:
“Gặp Chàng là
gặp người bằng xương bằng thịt, không phải là người trong văn chương tiểu thuyết.
Chàng rất chân thật, không giả dối kệch cởm. Chàng phản ảnh đúng những gì
Chàng viết. Thẳng thắn. Táo bạo. Nẩy lửa. Sức hút dữ dội. Quyến rũ lạ lùng. Người đối diện chỉ còn biết buông
xuôi và… trôi theo bấp bênh cùng Chàng!
Phải rồi! Bấp bênh và… vô định! Tự dưng nàng linh cảm
mãnh liệt điều đó. Đến với chàng là chấp nhận bấp bênh và vô định. Không chờ đợi,
không đòi hỏi. Vô điều kiện. Là quăng bỏ quá khứ và tương lai. Là phiêu lưu không cần địa bàn định hướng.
Chỉ có một chiếc kim chỉ nam là tấm lòng, là con tim, là sự thành thật.
Đó mới là kho tàng vô giá”.
Thời tôi và chị Thanh Hoài đi du học, số nam sinh viên
luôn luôn đông hơn nữ, tỷ lệ có thể đến 1/20. Được một cô sinh viên du học xinh
đẹp mới qua là có ít nhất hàng tá chàng trai Việt chạy theo. Các gia đình thượng lưu trong xã hội Việt Nam thời
bấy giờ, gửi con gái đi du học với niềm hy vọng: nếu nó học không xong cũng hy
vọng có được tấm chồng trí thức, bác sĩ, kỹ sư, tương lai bảo đảm. Con gái nếu
không thành công, thì có con rể vinh hiển cũng được nơi nương tựa yên ổn. Chị
Thanh Hoài đã từ chối bao kỹ sư, bác
sĩ đến với chị để nghe tiếng gọi của trái tim yêu một thi sĩ, một triết gia, âu
cũng là một sự lựa chọn cho cuộc đời gian truân của chị.
Phạm Công Thiện
là ai? anh được đào tạo từ đâu? hay anh là một thiên tài, đã học từ bao
nhiêu kiếp trước, nay sinh ra đã
trở thành một triết gia không cần học ai?
Theo tiểu sử anh sinh ra từ một gia đình theo đạo Công
Giáo, anh theo học một trường tư thục Công giáo dạy bằng tiếng Pháp, anh được
cha mẹ mướn người dạy kèm học tại tư
gia, nhưng năm 1963, anh ra Nha Trang quen biết với nhà thơ Quách Tấn. Quách Tấn
đưa anh đi thăm viếng chùa Hải Đức, nơi đây anh tập thiền và quy y thọ giới Sa
Di pháp danh Nguyên Tánh với Thầy Trí Thủ, một vị cao tăng Phật giáo.
Phạm Công Thiện
không viết hồi ký nên không rõ anh có bằng Tú Tài II hay không, nhưng giỏi sinh ngữ như anh việc thi thí
sinh tự do, lấy bằng Tú Tài toàn phần không phải là chuyện khó, rất nhiều học
sinh học trường Pháp, thi thí sinh tự do lấy bằng Tú Tài II Ban
Sinh Ngữ Văn Chương trường Việt thật dễ dàng. Học sinh trường Pháp thi
môn Anh Văn, Pháp Văn kỳ thi Tú Tài Việt được 18, 20 dễ dàng, các môn Triết
Học, Sử Địa chỉ cần học một lượt cũng được trung bình là kỳ thi
qua trót lọt.Triết Học lại là môn anh Thiện ưa thích lại quen viết bằng tiếng Việt. Để
có học bổng tại Viện Đại học Yale, để đi du học Hoa Kỳ khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện phải
có bằng Tú Tài Toàn Phần hạng Ưu hay Bình. Phạm Công Thiện xong
B.A (Cử nhân) tại Yale, và chuyển sang Columbia, nơi thầy Nhất Hạnh từng học, thì anh bỏ học
ra đời.
Trong quyển Hố thẳm tư tưởng, Lá Bối, Sài Gòn
xuất bản 1968, trong bức thư cho Nhị
Tay Ngàn, chương đầu Phạm Công Thiện viết: “Thời gian tao ở Hoa Kỳ, tao đã bỏ học, vì
tao thấy những trường đại học tao học,
như trường đại học Yale và Columbia, chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng
ngu xuẩn, ngay đến những giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời,
tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao. Qua Pháp tao đã sống nghèo đói thế nào, thì mày đã
biết rõ rồi, những lúc tao nằm ngủ tại những vỉa hè Paris, vào những đêm đông
đói lạnh, những lúc đói khổ như vậy, tao vẫn còn cảm thấy sung sướng hơn là ngồi nghe mấy thằng giáo sư trường đại
học Yale hay Columbia giảng cho tao nghe về Aristote hay Hégel, và Heidegger
hay Héraclite”.
“Bây giờ nếu
có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao cũng không
thèm nghe nữa. Tao là học trò của tao, và chỉ có tao là thầy của tao.
Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không muốn ai làm thầy của tao.
Còn các văn sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng
lúng túng, sự lập đi lập lại vô ý thức hay có ý thức, trí thức 15
xu, ái quốc nhân đạo 35 xu, triết lý tôn giáo 45 xu.
Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hégel hay Karl
Marx. Không cần phải đọc Khổng Tử, Lão Tử. Không cần phải đọc Upanisads và
Bhagavad Gita. Chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nội tại tiếng Việt
Nam là bổng nhiên nhìn thấy tất cả đạo lý, triết lý cao siêu nhất của nhân loại
đã nằm sâu trong ba tiếng Việt đơn sơ như: Con, Cái, Chay, Cháy, Chày, Chảy, Chạy
và còn bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta bỏ quên một cách ngu xuẩn.”
Phạm Công Thiện, sang Pháp, anh ghi danh ở Rennes,
Bretagne, ở với người anh đã
sang Pháp trước nhưng rồi không thuận
với anh, ông lên Paris khoảng năm 1966. Lúc này tại Paris, Thầy Nhất Hạnh lập Hội
Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại, chi bộ Pháp do anh Võ Văn Ái làm Tổng Thư Ký, trụ sở tại Maison Alfort, ngoại
ô Paris. Phạm Công Thiện thân thiết với anh Ái và cùng ở nơi này.
Năm 1966, Hòa
Thượng Minh Châu đến Paris tìm
người trợ giúp Viện Đại học Vạn Hạnh. Gặp Phạm Công Thiện, thầy
thuyết phục anh làm lễ xuất gia, thọ giới Tỳ Kheo cho anh, Đại Đức Thích
Nguyên Tánh và đưa anh về Viện Đại học Vạn Hạnh.
Phạm Công Thiện
phụ trách Khoa Khoa học
Nhân văn; sáng lập tạp chí Tư Tưởng, và soạn chương
trình cho Viện Đại học Vạn Hạnh.
Niên khoá 1968-1969; Thanh Hoài học môn Triết Đông
với Thầy Nguyên Tánh.
Năm 1970 Thanh Hoài lên đường đi du học tại Bruxelles.
Cũng năm này Phạm Công Thiện đi dự một Hội Nghị Phật Giáo cùng Hoà Thượng Minh Châu, anh xin ở lại ghi tên làm
luận án Tiến Sĩ. Tại Paris, Thanh Hoài gặp lại Phạm Công Thiện tại nhà họa sĩ
Vĩnh Ấn. Thanh Hoài quyết định bỏ Bruxelles sang Pháp chung sống cùng Phạm
Công Thiện. Cuộc sống phiêu lưu đầy gian nan, sống với học bổng của anh trong 4
năm. Sau đó anh xin được một việc làm văn phòng Đại học Toulousse.
Nhân có một chân phụ giảng trống anh làm đơn xin việc. Phạm Công Thiện được
giáo sư hướng dẫn giới thiệu ‘Sinh viên ưu tú xuất sắc hạng nhất, bốn năm cao học đã hoàn tất‘ (tr 252). Điều
này chứng tỏ Phạm Công Thiện đã xong văn bằng tốt nghiệp Ecole Pratique des
Hautes Etudes (tương đương với Master) tại Sorbonne, và học xong một năm D. E.
A. Diplôme Etudes Approfondies, (theo tổ chức đại học Pháp lúc đó, ngày nay đã
đổi thành Master I, Master II và bỏ văn bằng Tiến sĩ Đệ Tam cấp và Tiến
sĩ Quốc Gia, chỉ còn một văn bằng Tiến sĩ duy nhất). Anh làm việc
này giao kèo gia hạn mỗi năm, chức vụ cuối cùng là Giảng sư (Maître de Conférence) tại Đại Học Toulousse
II... Công việc tạm ổn định, chị Thanh Hoài sinh năm con, bốn cháu trai và một
cô gái út, quần quật với bầy con: đưa rước đi học, ăn uống tắm rửa, bếp núp, chị
còn làm việc ráp linh kiện cho hãng máy bay Airbus, nhưng Phạm Công Thiện lại rơi vào vòng
nghiện rượu, sống cuộc sống đầy bè bạn
quên mất chuyện gia đình.
“Và nơi ngôi
biệt thự xinh xắn đó, nơi mà đáng lý ra chỉ có hương hoa và sắc màu của một vị ngọt là hạnh phúc,
thì trớ trêu thay, nơi
đây suốt bảy năm trời chỉ mang một vị đắng. Vị đắng của khổ đau. Vị chua chát của
rượu… Chàng đã thỏa hiệp với con ma rượu.
“Anh không thấy
gì hứng thú vì cứ phải lải nhải triết lý để kiếm tiền nuôi vợ con”. “Anh
chỉ là chiếc bóng đằng sau bầy con. Điều này cũng làm anh đau khổ. Lải nhải triết
lý xong thì anh chỉ còn biết lè nhè”.
“Thì giờ của em dành cho con quá nhiều và em đã bỏ rơi anh... Hay là em... tránh né anh..?”
Tránh né anh vì
em ghê sợ mùi rượu. Vậy anh hãy
ngừng uống rượu..
Đúng là lẫn quẩn
không lối thoát!
Bảy năm trời
trôi qua trong cái vòng lẩn quẩn không lối thoát đó, nơi cái biệt thự
màu hồng đó. Nàng thì vẫn cứ xoay mòng với bầy con năm đứa. Chàng thì cố gắng
làm tròn công việc dạy học, cho dù nỗi chán chường mỗi ngày một chồng chất, nhưng bọn sinh viên vẫn ào ào tới càng ngày
càng đông hơn, giới trí thức trong tỉnh lần lần nghe tiếng và bạn bè lũ lượt
kéo đến càng nhiều hơn. Những buổi trà dư tửu hậu lại tiếp nối nhau. Khói thuốc
vẫn mịt mù lan toả. Mùi rượu vẫn nồng nặc xông lên..
Cho đến cái
ngày mà giọt nước đã tràn đầy ly thì cái vòng lẩn quẩn đó tự động ngừng
quay”.
Một ngày Thanh Hoài bị suyễn nặng, ho vì dị ứng phấn hoa,
nhờ anh đi mua thuốc. Anh ra đường gặp bạn bè rủ đi ăn nhậu, quên mất
chuyện thuốc cứu cấp cho vợ, sáng hôm sau mới về mang một hộp trứng, hỏi thuốc,
anh quên mất.
“Sáng hôm ấy, vì quá mệt, Nàng đưa toa của bác sĩ nhờ
Chàng ghé tiệm thuốc mua giùm Nàng. Mười lăm phút, hai mươi phút, ba mươi phút trôi qua, Nàng ngong ngóng Chàng
về đưa thuốc cho đỡ nghẹt thở. Rồi một giờ, hai giờ, ba giờ trôi qua.. vẫn không
thấy bóng Chàng. Nửa ngày trôi qua. Một đêm trôi qua. Nàng vẫn ngong ngóng.
Nhưng vẫn không thấy bóng chàng đâu. Một đêm đã trôi thật quá dài, quá
dài tưởng như bất tận. Không ngủ được
vì ho, vì nghẹt thở. Nàng đã trải nghiệm cảm giác thế nào là kề cận cái
chết. Nàng không đủ sức để tức giận, vì nàng nghĩ nếu chết trong sự tức tối, chỉ
tự mình hại mình, sẽ không được đầu thai tốt, lại còn rơi vào đọa xứ nữa không chừng! Chi bằng cứ
thản nhiên, chấp nhận số phận và thanh thản niệm Phật. Đây là điều cần làm
trong lúc này, chẳng phải là sự tức giận!
Nàng nhắm mắt
chờ thần chết rước đi. Nhưng không, không được ! Nàng sực tỉnh ! Mà kia mình
đã quên mất bầy con, mình chết thì chúng sẽ ra sao đây ? Mình có thể bỏ chúng để
‘ tiêu diêu ‘ nơi phương trời nào đó
được chăng ? Từ bỏ cái thân thể bệnh hoạn khổ sở thì mình cũng hết nợ với
thế gian này, nhẹ nhàng thanh thản cho mình, nhưng không thể chỉ nghĩ đến mình mà quên bầy con. Không được rồi,
không đúng rồi.. Không mình phải sống, phải ngồi dậy, đứng thẳng và không còn
nghẹt thở. Mình phải tự bảo vệ mình, không thể buông xuôi ! Mình nhớ đã từng được
dạy dỗ ‘ thân người khó được ‘, phải bảo vệ nó cơ mà ! Không sát sanh, không hại
vật, nhưng khi nguy cơ đến thì
cũng phải biết tự bảo vệ để không mất mạng chứ ! Có thể nào chết dễ dàng như vậy được ? Không, ta phải sống !
Khi trời vừa tờ
mờ sáng thì Nàng nghe tiếng cửa mở. Chỉ cần thấy dáng bộ xiêu vẹo, ngả
nghiêng của Chàng là nàng thừa hiểu tất cả. Trông Chàng còn thê thảm hơn cả Nàng nữa ! Thôi thì chẳng còn
gì để hỏi, để nói, để trách nữa. Chắc chắn là không có thuốc cho Nàng rồi.
Dù gì thì Nàng cũng đã quyết định rằng Nàng phải sống,
Nàng phải thở, Nàng phải đứng thẳng dậy và đi tiếp.
Nhưng đoạn đường đi tiếp của Nàng chắc chắn là sẽ không
đi cùng Chàng. Không vì tức giận hay oán trách, mà chỉ vì không còn giải pháp
nào khác hơn.
Thế là Nàng lặng
lẽ sắp đặt cuộc ra đi của Nàng. Rồi đến ngày hôm đó, không báo trước, không nói
năng. Nàng âm thầm dắt bầy con ra khỏi ngôi biệt thự màu hồng . »
Thanh
Hoài quyết định chia tay cùng anh, chị thu xếp cùng năm con ra đi. Phạm Công
Thiện cũng mất việc đại học vì khế ước không được gia hạn và ghế giảng sư cũng không còn, anh được Hoà
Thượng Mãn Giác mời sang dạy
tại Viện Quốc Tế Phật Giáo, tai Los Angeles. Anh lại trở về cư ngụ tại chùa, tại nhà bạn bè.
Tại xã
hội Pháp nuôi nấng năm con không phải là điều dễ dàng, thường mỗi gia đình chỉ dám có 2,3 con. Thanh
Hoài vừa làm mẹ, vừa làm cha, khi dạy đàn dương cầm, khi làm quản gia và các công việc khác, nuôi năm con cho đến khi
trưởng thành, thành người : Cậu trai đầu , tốt nghiệp École Normal
Supérieur rue d’Ulm, Tiến sĩ Vật lý , giảng dạy Vật Lý Viện Đại Học
Paris Orsay. Cậu thứ hai Tốt nghiệp Cao Đẳng Thương Mại tại Bordeaux,
Giám Đốc Thương Mại, cậu thứ ba Tốt nghiệp trường Mỹ Thuật tại San José
Hoa Kỳ, Họa sĩ, cậu thứ tư giống bố ở chỗ thích Triết Học và cô gái
út Bác sĩ Nhi Khoa. Chị có đầy đàn cháu nội, cháu ngoại.
Phạm Công Thiện qua đời năm 2011 tại Houston, các con đều
sang dự đám tang cha.
« Nhờ âm nhạc, qua âm nhạc, bà luôn luôn đi sát cạnh cuộc
đời, ở trong cuộc đời, thăng hoa cuộc đời, biến những nỗi buồn thành niềm vui,
những chán chường thành lạc quan yêu
đời, cô đơn thành cảm thông chia sẽ. »
Đứa cháu ngoại
đã hỏi chị :
-« Bà ơi ! Bà có giận ông ngoại không ?
- Bà chẳng
hề giận !
- Thực ra, con
cũng thấy thương ông ngoại làm sao ấy..
Cháu bà giỏi lắm,
các cậu và mẹ con cũng thế, luôn yêu thương ông ngoại, không hề ghét bỏ hay
trách móc.
- Mỗi lần gặp
lại ông, con chỉ muốn ôm ông hôn và không cần phải nói nhiều.. Con biết ông
không hề có ý làm khổ bà, vì chính ông là người khổ trước tiên nếu phải làm khổ ai…. Ông ngoại
vẫn luôn bảo tụi con phải yêu thương bà hết mực, vì nhờ bà mà mẹ con,
các cậu con nên người. Có điều..
ông vẫn nghĩ là bà còn giận ông !
- Con có nghĩ như vậy khi bà kể chuyện cho con ?
- Không,
Con nghĩ bà vẫn còn yêu ông ngoại !
- Thực ư.. Chính bà cũng không biết ! »
Khép lại trang
sách tôi ngẫm nghĩ. Tiếc là sách bằng tiếng Việt, nếu viết bằng tiếng Pháp, các
cháu nội, cháu ngoại chị Thanh Hoài đọc được sẽ nghĩ rằng : ông bà mình
thiếu thông tin cho nhau. Nếu ông đi đâu, điện thoại cho bà một tiếng, hay nếu
có điện thoại di động, bà gọi ông nhắn ông đem thuốc về gấp thì sẽ không có
chuyện gì xảy ra. Tiếc thay oan Quan Âm Thị Kính nằm ở chổ, thời ấy chưa có dao cạo râu: Thị Kính phải vác con
dao phay to tướng cắt râu cho chồng. Bà giận ông : vì thời ấy chưa có điện thoại di động. Nếu không bà sẽ
điều khiển từ xa, ông chồng triết gia lãng trí hay quên của mình.
Các cháu Việt Nam sinh ra tại Pháp xem xong vở tuồng Quan
Âm Thị Kính thường tức tối và hỏi :
Où est sa bouche ?. Cái miệng bà Thị Kính ở đâu ? Sao bà không nói ? Sao ông
không nói ? Tiếc thay khi ông bà giận nhau các cháu chưa ra đời !
Khép lại đọc
trang cuối bìa tập sách là lời Phạm Công Thiện viết khi gặp nhau lần cuối
: « Ở nơi chốn hỗn loạn, ở nơi tận
cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên những
âm thanh của dịu dàng đầm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều
Không Thể mà vẫn Có Thể. Hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể”.
Khép lại trang sách chuyện kể một cuộc tình, hai cuộc đời
không trọn vẹn cùng nhau đến cuối đời. Nhưng lời kể chuyện trong trẻo, thanh
thoát khiến cho chúng ta vẫn còn nghe vang lên một dư âm tiếng đàn dương cầm chị Thanh Hoài.
Xin giới thiệu
tiểu thuyết “Chuyện một người đàn bà.. năm con » của Lê Khắc Thanh Hoài do nhà
xuất bản Thời Đại xuất bản tại Hà Nội và Sài Gòn cùng đọc giả trong và
ngoài nước. Qua câu chuyện một kinh
nghiệm sống cuộc đời, chị đã vẽ ra một khung cảnh người Việt trên đất Pháp, nó cần thiết cho các bạn
trẻ, cho phụ huynh khi con em lên đường du học. Truyện còn giúp ta hiểu
hơn về Phạm Công Thiện một nhà thơ,
một triết gia một thời danh tiếng tại miền Nam Việt Nam.
Paris 23-7-2016
PHẠM TRONG
CHÁNH
TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét