Tác giả Nguyễn
Đức Dương còn thống kê thêm 3 biến thể chuyển chú nữa:“Khôn cho người rái, dại cho người thương, dở dở ương
ương chỉ tổ người ghét”; “Khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương, dở dở
ương ương chỉ tổ người ta ghét”; “Khôn cho người ta rái, dại cho người ta
thương, dở dở ương ương chỉ tổ người ta ghét”. Chúng chỉ khác về số câu chữ và
thêm trường hợp chính tả viết khác (dái và rái) còn nội dung ngữ nghĩa
như nhau.
Có một chữ
"dái" cần làm rõ trước khi giải nghĩa toàn bộ câu tục ngữ này.
"Dái"
(hay còn viết là "rái") là một từ cổ. “Từ điển Việt - Bồ - La”
(A. de Rhodes 1651) giải nghĩa là "sợ"; “Đại Nam quấc âm tự vị”
(Huình Tịnh Paulus Của, 1896) giải nghĩa là "kiêng nể"; “Từ điển Từ cổ”
(Vương Lộc, NXB Đà Nẵng, 2001) và “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên,
Trung tâm Từ điển học, 2017) cho từ này là từ cũ, ít dùng và cùng giải nghĩa là
"kiêng nể".
Từ "dái" này lại đồng âm với một
"dái" khác, hay dùng hơn,
có nghĩa thông dụng, chỉ "bìu dái" (khẩu ngữ, tức "âm
nang" - là "bọc chứa hai tinh hoàn của người (hay động vật có 4 chi, như trâu, bò,
chó, lợn, dê, cừu..."). "Dái" trong thành ngữ "Chạy như chó dái" hay tục ngữ "To đầu
mà dại, bé dái mà khôn" chính là "dái" này).
"Dái"
có nghĩa cổ còn xuất hiện trong một số tục ngữ khác nữa. Chẳng hạn: 1.
“Quen dái dạ, lạ dái áo” (Với người
quen biết, sống với nhau lâu thì cái mà người ta tôn trọng, kính nể chính là lòng dạ
(gồm tư cách, sự hiểu biết, cách ứng
xử...); còn với người lần đầu
mới quen thì hình thức bề ngoài (trước hết là trang phục, quần áo, bộ dạng..) lại làm cho người ta thấy coi trọng.
Câu này cũng ngầm chuyển tới một thông điệp "tốt gỗ hơn tốt nước
sơn", cái thực chất của mỗi người quan trọng, giữ vai trò quyết định
trong việc định giá trị. 2. “Yêu nhau chị em gái, dái nhau chị em dâu, đánh
nhau vỡ đầu anh em rể” (chị em gái - chị em ruột - thường thương yêu, đùm bọc
nhau; chị em dâu - có sự cách biệt về quan hệ - thường hay e dè, giữ ý, không thân mật; anh
em rể - thứ anh em hình thức - thường
hay xích mích, va chạm, không thân thiện, tới mức có thể choảng nhau "vỡ đầu"
như chơi - kể cũng hơi quá chứ anh em rể đâu đến nỗi tệ thế?).
Từ
"dái", hiểu sâu xa hơn, không chỉ là "kiêng nể", mà còn
là "tôn trọng, khâm phục, đáng học hỏi". Đó là một cách ứng xử mà người đời lựa chọn trong quan hệ nói chung.
Vậy, tục ngữ "Khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương, dở dở ương
ương chỉ tổ người ta ghét" cần giải thích chính xác là: "Mỗi người ở
đời, có ba cách thể hiện tư cách (cũng như tư chất) và sẽ nhận được ba thái độ ứng
xử khác nhau của cộng đồng:
1. Nếu (thực sự)
tỏ ra khôn ngoan, giỏi giang, khéo léo sẽ được người khác nể trọng; 2. Nếu tỏ
ra còn non kém, dại khờ (một cách chân thành, hồn nhiên) thì sẽ được người
khác thông cảm, chia sẻ, quý mến (kém cỏi, thua chị kém em đâu có sao, miễn là
ta biết mình biết người); 3. Còn
ai đó có biểu hiện không rõ ràng, chả ra khôn chả ra dại, tinh tướng ta đây lên mặt với đời dễ bị người khác
"đọc vị" tẩy chay, không nhận được sự tôn trọng và sẽ bị phân biệt đối
xử".
“Cái gì
cũng phải rõ ràng
Dở dơi dở chuột
cả làng không chơi...”.
PGS-TS PHẠM VĂN TÌNH
Theo TTVH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét