Nhà thơ Lê Đạt
1. Tôi xin
phép được nhắc lại tóm tắt một số ý kiến cần thiết đã được phát biểu
tại cuộc Hội thảo Văn Miếu và trong tập Bóng chữ:
- Văn xuôi chủ yếu dựa vào “ý tại ngôn tại”.
- Thơ khác hẳn,
dựa vào “ý tại ngôn ngoại”. Đã “ý tại ngôn ngoại” tất nhiên phải cô đúc
và đa nghĩa.
- Người ta làm thơ không phải bằng ý mà bằng chữ.
- Nhà thơ làm
chữ chủ yếu không phải ở “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tự vị của nó, mà ở diện mạo,
âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu,
bài thơ.
Nói như
Valery, chữ trong thơ và văn xuôi tuy giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về hoá trị.
Đà tiến bộ gia
tốc của khoa học (nhất là tin học và sinh học) hình như đã gợi ý một số khả năng mới cho công việc
làm thơ.
Người ta không
buộc phải dừng lại ở mức bài thơ, câu thơ như trước. Nhà thơ có thể nghĩ tới việc
cấy chữ như nhà khoa học cấy gen trong công nghệ sinh học.
2. Người ta
hay nói đến công phu người viết tiểu thuyết. Tolstoi đã chữa đi chữa lại
nhiều lần cuốn tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hoà bình. Flaubert
cân nhắc chữ trên cân tiểu ly như một
thầy lang bốc những vị thuốc công phạt có thể chết người.
Nhưng các nhà
lý thuyết ít nói đến công phu của nhà thơ. Ngược lại thiên hạ sính ca tụng những nhà thơ viết tức khắc trong những
cơn bốc đồng, những nhà thơ thiên phú.
Trời cho thì
trời lại lấy đi. Những cơn bốc đồng thường ngắn ngủi.
Tôi rất biết những câu thơ hay đều kỳ ngộ, nhưng là kỳ ngộ
kết quả của một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối, làm động lòng quỷ thần,
chứ không phải may rủi đơn thuần.
Làm thơ không
phải đánh quả. Và không ai trúng số độc đắc suốt đời.
Có người hiểu
lầm câu nói của Trang Tử vứt thánh bỏ trí để coi thường việc học tập, rèn luyện,
làm như Trang Tử khuyến khích một nỗ lực vô văn hóa.
Vứt thánh bỏ
trí được lắm. Nhưng trước khi vứt, khi bỏ phải có đã chứ.
Tôi rất ghét cái định kiến quái gở, không biết xuất hiện
từ bao giờ: các nhà thơ Việt Nam thường
chín sớm nên cũng tàn lụi sớm.
Đó là những
nhà thơ chủ yếu sống bằng vốn trời cho.
Mà Trời tuy là
kho vô tận, thường khi cũng bủn xỉn lắm. Hình như tất cả những người “cho” đều bủn xỉn. Và hoàn
toàn sống dựa vào viện trợ, dầu là hào phóng, vô tư nhất nhiều khi còn
khổ quá đi ăn mày.
Tôi không mê những nhà thơ thần đồng. Tôi ưa những nhà thơ một nắng hai sương, lầm lũi, lực điền
trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ.
Chúng ta cần học
những nhà thơ như Lý Bạch, Saadi, Geothe, Tagore, ở vào buổi chiều tóc bạc
vẫn thu hoạch những mùa thơ dậy thì.
Cái trẻ, cái già của nhà thơ quyết định không phải đo ở tuổi trời, mà ở nội lực
của chữ.
Picasso có nói
một câu khá thâm thuý: “Người
ta cần rất nhiều thời gian để trở nên trẻ.”
Có lẽ vì
vậy mà tôi rất ủng hộ lời phát biểu của một nhà thơ Pháp, gốc Do Thái Et-mong Gia-bex: Chữ bầu
lên nhà thơ.
Gia-bex muốn
nói rằng không có chức nhà thơ suốt đời. Mỗi lần làm một bài thơ, nhà thơ lại
phải ứng cử trong một cuộc bầu khắc nghiệt của cử tri chữ.
Tôi không nhớ
Gide hay Petxoa (nhà thơ lớn Bồ Đào Nha) đã có một nhận xét khá nghiêm
khắc về Victo Huygo: Victo nhiều lần tưởng mình là Huygo.
Như thế có
nghĩa mặc dầu là một thiên tài đồ sộ đã không ít lần Huygo không được
tái cử vào cương vị nhà thơ qua cuộc
bỏ phiếu của chữ.
3. Con đường
thơ gồm nhiều con đường riêng rất khác nhau của từng người. Không có đại lộ
chung một chiều cho tất cả.
Ta có thể nói
con đường thơ chính là số phận của một nhà thơ.
Nhưng, dầu
theo con đường nào, một nhà thơ cũng phải cúc cung tận tuỵ đem hết tâm trí dùi
mài và lao động chữ, biến ngôn ngữ công cộng thành ngôn ngữ đặc sản độc nhất
làm phong phú cho tiếng mẹ như một lão bộc trung thành của ngôn ngữ.
Một nền thơ có
một Lý Bạch là một nền thơ có
phúc. Một nền thơ có một trăm Lý Bạch là một nền thơ bất hạnh vì chỉ có một Lý Bạch thật còn
99 Lý Bạch rởm.
Làm thơ là một
lao động nhọc mệt, ít tiền và gian nan. Do đó các nhà thơ, các nhà phê bình
thơ phải đùm bọc, giúp đỡ nhau. Nên
vì thơ hơn là vì tên
tuổi cá nhân mình, cần tránh thiên hướng bới lông tìm vết. Phải biết trân trọng đối thoại với cái khác,
cái lạ của bạn. Con đường thơ là một chu kỳ mở. Không ai được vỗ ngực độc quyền
chân lý cũng như tự cho phép mình nói tiếng nói cuối cùng.
Giữa những người
có văn hóa, đối thoại bao giờ cũng hiệu quả hơn “đối thụi”.
Không nên coi
tranh luận thơ như một trận đánh bốc nhất thiết phải tìm những đòn hiểm
đả bại đối thủ. Thắng bại làm gì khi chỉ có thơ là chịu thiệt. Người ta rất có thể nghiêm khắc, quyết liệt mà vẫn “sang
trọng”.
Và đừng bao giờ
quên rằng, trong khi người ta tranh luận ồn ào về thơ, “nàng thơ” vốn con nhà tử
tế và hay xấu hổ, thấy ầm ĩ quá đã lẳng lặng rút lui từ bao giờ!
LÊ ĐẠT
Nguồn: Văn Nghệ, 34/1994
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét