Tóm tắt:
Tình yêu thiên nhiên, trong đó có tình yêu cái đẹp
của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người
Việt. Qua ca dao chúng ta thấy đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có núi
có sông, có sơn có thủy , sơn thủy hài hòa, núi sông uốn lượn
mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống nhưng
cũng đầy tình tứ, gắn bó tương thông với con người. Cảnh đẹp ấy bên
cạnh hình dáng uyển chuyển và tươi tắn, hữu tình, còn là tượng
trưng của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có
ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.
Rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên là một bộ phận
trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động ấy qua
ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt.
Mỗi dân tộc tồn tại đều có diện mạo riêng của mình. Diện
mạo ấy thường bộc lộ rõ rệt
nhất trong văn hóa, tức là trong cách sinh hoạt, cách ứng xử của con người trong quan hệ với chính mình, với
tự nhiên và với xã hội. “Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động
sinh tồn và phát triển của mình” (Hà Văn Tấn) (1). Trong diện mạo ấy
có những nét độc đáo, chỉ riêng dân tộc có, nhưng cũng có những nét giống hoặc gần gũi với các dân tộc khác. Nghiên cứu
diện mạo hay bản sắc văn hóa dân tộc trước hết không phải đi tìm cho được
nét khác biệt của dân tộc mình với dân tộc khác, vì điều này đòi hỏi sự hiểu biết
rất lớn, mà chính là nhận diện cho được chân dung văn hóa của dân tộc mình, xác
định cho được những nét nổi bật đã tạo nên diện mạo văn hóa của dân tộc.
Bản sắc văn hóa của dân tộc được cấu thành từ nhiều yếu tố,
trong đó có thị hiếu thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp. Sáng tác dân gian là một
căn cứ đáng tin cậy, dựa vào đó có thể nhận ra phần nào đặc điểm ý thức thẩm mỹ
của người Việt. Tìm hiểu cái đẹp trong ca dao là một cách tiếp cận, một con đường
nhằm đến mục tiêu nhận thức đầy đủ hơn tính cách của người Việt và xa hơn là diện mạo của văn hóa dân tộc.
Trong ca dao
truyền thống, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu có chữ “Đẹp”:
Mặn nồng một vẻ thiên nhiên
Đất ta cảnh đẹp càng nhìn càng say. (2)
*
Gia Lâm có đất Cổ
Bi
Muôn đời cảnh đẹp
còn ghi rành rành.
*
Tương
truyền đây đất đế kinh
Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.
*
Chẳng vui cũng thể hội Thầy
Chẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
*
Giao Tự lắm bãi nhiều doi
Lắm con gái đẹp nhiều
nơi phải lòng.
*
Nhất đẹp con gái Bù
Nâu
Cứng cỏi Đanh Xá,
cơ cầu Quyển Sơn.
*
Gái Dự Quần đẹp như
hoa lí
Trai thanh tân có ý
mà theo.
Nếu coi chữ “Đẹp” đồng nghĩa với chữ “Xinh” thì số lượng những câu ca dao dạng này còn
tăng lên rất lớn:
Trúc xinh trúc mọc
đầu đình
Em xinh em đứng một
mình cũng xinh.
*
Nhất quế nhị lan
Nhất xinh, nhất lịch
khôn ngoan trăm chiều.
*
Gặp em thấy khéo miệng
cười
Thấy xinh con mắt,
thấy tươi má hồng.
Có thể nói cái Đẹp là một cảm hứng lớn trong thơ ca trữ tình dân gian người Việt. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất
vả không làm thui chột cảm xúc thẩm mỹ của người dân quê, không làm mất đi những
rung động về vẻ đẹp của cảnh vật và con người bắt gặp hằng ngày. Rung động ấy
có khi bột phát thành tiếng kêu vui:
Do Xuyên đẹp lắm ai ơi
Có về chỗ đó cho tôi về cùng.
Nhưng nhiều
khi chỉ thể hiện trong cái nhìn trìu mến, yêu thương với cảnh vật:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
*
Nhác trông phong cảnh vui thay
Báo Bồng có phải chốn này hay không.
Trong hoàn cảnh
đất nước nông nghiệp lạc hậu, thiên tai đe dọa, làm không đủ ăn, đói no thất
thường, đời sống lao động một nắng hai sương, giữ cho được cái nhìn yêu
đời và những rung động vô tư như vậy quả thật đáng quý. Đó phải chăng cũng là một
nét tính cách của người Việt? Phải
chăng tình yêu cái đẹp ấy là một trong những cội nguồn của sự mến mộ văn
chương của người Việt, nhất là đối với thơ ca, sự mến mộ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm
thì gọi là “bệnh yêu thơ” không chữa
được, còn Ngô Thì Sĩ thì gọi là bệnh “nghiện thơ” và chính điều đó đã làm cho nước ta thành “một nước thơ” như lời Ngô Thì
Nhậm nói khi bàn thơ với Phan Huy
Ích (3). Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy có khi đã dẫn đến việc tạo ra
nét “văn chương phù hoa” trong tính cách người Việt, như nhận xét của Đào Duy Anh?(4).
Trong ca dao,
những cảm xúc về cái đẹp bắt nguồn trước hết từ bức tranh thiên nhiên và phong
cảnh. Có rất nhiều câu chữ “Đẹp” đi liền với “Cảnh”:
Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi
Có người chinh phụ phương trời đăm đăm.
*
Đường nào vui bằng đường Thượng Tứ
Cảnh mô đẹp bằng núi Ngự, sông Hương.
Cảnh ở đây có
thể là cảnh thiên nhiên như hòn Vọng Phu, núi Nhồi, như sông Hương núi Ngự, nhưng cũng có thể là cánh đồng,
làng quê, bến nước, con đò, tức là cảnh ở đó tự nhiên và con người gắn với nhau thân thiết, gần gũi:
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên
đồng lúa xanh.
*
Đại Hoàng phong cảnh
hữu tình
Của nhiều, đất rộng,
gái xinh trai tài.
Cảnh hay phong cảnh đi vào ca dao phổ biến nhất trong bốn
trường hợp. Thứ nhất là trong những
câu mở đầu (5):
Nước sông Gianh vừa trong vừa mát
Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi.
Dang tay ngứt đọt từ
bi
Cho lòng bên nớ bên
ni kết nguyền.
hay:
Trăng lên đỉnh núi
trăng mờ
Mình yêu ta thực
hay là ghét chơi ?
Thứ hai là
trong những câu kể chuyện tâm tình, ở đó cảnh là môi trường gặp gỡ, là nơi tình tự, chờ đợi, nhớ
nhung, nơi diễn ra câu chuyện yêu đương:
Nước sông Tô vừa
trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ
sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ
tâm tình
Sông bao nhiêu nước
thương mình bấy nhiêu
*
Đêm khuya trăng lệch
trời trong
Muốn trao duyên với
bạn sợ lòng mẹ cha
Thứ ba, trong những
câu ca giới thiệu về quê hương xứ sở:
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương…
*
Dạo xem phong cảnh trời mây
Lô, Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về.
Thứ tư, cảnh
như đối tượng của sự thưởng thức thẩm mỹ:
Gió đưa, đưa lướt chòm thông
Gió bay thông cỗi
như lồng bóng ngân
Suối trong leo lẻo trên ngàn
Kìa con chim Phượng soi làm suối trong.
hay:
Ai đi qua phố khoa Trường
Dừng chân ngắm cảnh núi rừng xanh xanh
Dòng sông uốn khúc chảy quanh
Trên đường cái lớn
bộ hành ngược xuôi.
Rõ ràng
trong trường hợp thứ tư này, thiên
nhiên và cảnh vật hiện ra không phải như những đối tượng sở chỉ (reference), ám
chỉ hay đưa đẩy, mà là đối tượng của sự chiêm ngưỡng thuần túy. Điều này rất
đáng chú ý, nó chứng tỏ ca dao truyền thống không chỉ chứa đựng tâm tư
và kinh nghiệm sống ủa người dân quê
mà còn thể hiện những rung động thẩm mỹ, tình yêu của họ với cái đẹp của
thiên nhiên và cảnh vật xung quanh.
Đặc điểm cơ bản của cảm xúc thẩm mỹ là tính vô tư. Đứng trước một cảnh vật người ta có thể
có nhiều cảm xúc khác nhau, nhưng chỉ khi nào cảm xúc thoát khỏi những quan tâm
về ý nghĩa hay giá trị thực tế của đối tượng và chỉ tập trung vào hình
dáng, màu sắc và sự chuyển động của nó thì cảm xúc đó mới được coi là cảm xúc
thẩm mỹ. Trong ca dao chúng ta bắt gặp rất nhiều lần những rung động thẩm mỹ
như vậy:
Chiều chiều ra đứng
gốc cây
Trong chim bay liệng,
trông mây ngang trời
Trông xa xa tít xa
vời
Những non cùng nước,
những đồi cùng cây.
*
Trời xanh dưới nước cũng xanh
Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.
Có điều cần
lưu ý là trong ca dao như đã
nói ở trên, đối tượng gây nên cảm xúc thẩm mỹ không chì là thiên nhiên mà nhiều
khi còn là những cảnh vật do con người
tạo nên, gắn bó với đời sống của họ:
Mênh mông biển
lúa xanh rờn
Tháp cao sừng
sững trăng vờn bóng cau
Một vùng phong
cảnh trước sau
Bức tranh
thiên cổ đượm màu giang san.
*
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên
đồng lúa xanh.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Cuộc sống của người nông dân vốn gắn chặt với thiên nhiên,
vì vậy vẻ đẹp của thiên nhiên cũng gắn chặt với sinh hoạt của con người. Cái đẹp của phong cảnh có khi là vẻ đẹp
của núi, sông, suối khe thuần túy, nhưng nhiều khi là cánh đồng, là bến sông,
là con đường người qua lại đông vui. Trong ý thức của người nông dân, cảm xúc thẩm mỹ không phải lúc nào
cũng tồn tại độc lập mà thường pha trộn, xen lẫn với những cảm xúc khác, nhất
là cảm xúc về cái có ích. Điều này phản ánh rất rõ trong những câu ca
dao có chữ “Đẹp” liên quan đến phong cảnh:
Đường về Đông Việt
loanh quanh
Đồng xanh làng đẹp
như tranh họa đồ.
Vẻ đẹp của quê hương ở đây gắn với cánh đồng lúa xanh hứa hẹn một mùa gặt no ấm, tức là gắn
với cảm giác về sự sung túc, với cái có ích.
Sự pha trộn giữa
cảm xúc thẩm mỹ và cảm giác về cái có lợi bộc lộ đặc biệt rõ rệt trong
những câu thơ về con sông ở làng
quê. Một mặt người dân quê rất yêu mến vẻ đẹp của dòng sông với hình
dáng uốn cong mềm mại của nó:
Làng tôi có lũy tre
xanh
Có sông Tô Lịch uốn
quanh xóm làng…
Hỡi cô thắt bao lưng
xanh
Có về Vạn Phúc với anh thì về
Vạn Phúc có cội bờ
đề
Có sông uốn khúc có
nghề quay tơ.
Trong thị hiếu thẩm mỹ của người Việt, đường cong uyển
chuyển này in dấu rất đậm nét:
Đường vô xứ Nghệ
quanh quanh
Non xanh nước biếc
như tranh họa đồ…
Sông Tô một dải lượn
vòng
Ấy nơi
liệt nữ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng uốn khúc chảy quanh
Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài.
Mặt khác, vẻ đẹp
của con sông có được không chỉ do hình dáng của nó mà còn nhờ chỗ nó có
giá trị “tắm mát”.
Làng Chợ đẹp lắm ai
ơi
Sông sâu tắm mát
trên đồi nương ngô
Vùng Bưởi
có lịch, có lề
Có sông tắm mát có nghề seo can
Cô kia thắt bao lưng xanh
Có về Yên Mĩ với anh thì về
Yên Mĩ anh có nhiều
tre
Có sông tắm mát có
nghề trồng ngô.
Long tự hào của người dân quê về vẻ đẹp của con sông với những đường nét uốn lượn tự nhiên
cùng với công dụng tắm mát của nó cũng tương tự như lời khen ngợi cô thôn nữ vừa
đẹp người vừa đẹp nết:
Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết, lại tươi răng vàng
Nhất đẹp là gái làng Cầu
Khéo ăn khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.
Thẩm mỹ của
người Việt xưa là vậy. Cái đẹp vừa có tính độc lập nhưng cũng vừa gắn với cái Lợi,
cái Đức. Con sông uốn khúc cũng đẹp, sông tắm mát cũng đẹp, cả hai đều đẹp. Người
có làn da trắng cũng đẹp, người nết na cũng đẹp, cả hai đều được khen là Đẹp.
Cái đẹp vừa có cái riêng (như là phẩm chất về hình thức) vừa có cái
chung (như tổng hợp của cả hình
thức và ý nghĩa) – đó là quan niệm về cái đẹp rất phổ biến trong ca dao truyền
thống và có lẽ cũng cả trong dân gian nói chung.
Bức tranh thiên nhiên và phong cảnh làng quê là cội nguồn
của những rung động thẩm mỹ trong ca dao. Khảo sát sự lắp đi lắp lại của những
cảnh vật trực tiếp khơi dậy những cảm xúc ấy, chúng ta thấy có những điểm đáng
chú ý sau đây.
Vẻ đẹp của cảnh núi – sông. Trong ca dao, “nước”, “non”,
“sông”, “núi” là những từ có tần số xuất hiện rất cao. Điều này cũng dễ hiểu, bởi
vì nước ta có địa hình phức tạp,
nhiều núi, nhiều sông, núi và sông gắn chặt với đời sống con người, nên núi
sông đi vào ca dao nhiều cũng không có gì đặc biệt. Đáng chú ý là ở chỗ, trong
nhiều câu ca dao, núi – sông thường
đi liền với nhau, tạo nên một phong cảnh gợi cảm xúc thẩm mỹ:
Sông Tuần một dãy nông sờ
Hàm Rồng một dãy lờ
mờ núi cao
Vui thay núi thẳm
nông sâu
Thuyền đi hai dãy
như sao hôm rằm
*
Đường mô vui bằng đường Thượng Tứ
Cảnh mô đẹp bằng cảnh núi Ngự, sông Hương
Có rất nhiều
câu ca dao trong đó núi – sông đi với nhau tạo nên một hình ảnh thống nhất
về vẻ đẹp của thiên nhiên:
Núi Truồi ai đắp mà
cao
Sông Gianh ai bới
ai đào mà sâu.
*
Ai ơi đứng lại
mà trông
Kìa núi
Tam Đảo, kìa sông Tam Kì.
Dường như
trong cảm thức dân gian, núi chỉ đẹp khi có sông và sông chỉ đẹp khi đi với
núi. Sông với núi kết hợp thành một đôi SƠN THỦY như một nguồn cảm hứng của tình
yêu hay của lòng tự hào về quê hương:
Sáng trăng dạo cẳng đi chơi
Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.
*
Nhìn xem phong cảnh
làng ta
Có sơn
có thủy bao la hữu tình.
Từ cặp đôi núi sông, sơn thủy này đã hình thành nên biểu
tượng nước non phổ biến trong ca
dao:
Non kia ai đắp mà cao
Sông kia ai bới ai đào mà sâu
Nước non là nước non trời
Ai phân được nước ai dời được non.
Nước biếc non
xanh trở thành dấu hiệu của vẻ đẹp phong cảnh, thành niềm tự hào về nét đẹp của
mỗi vùng quê:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
*
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh
Đền Hùng Phú Thọ nước
biếc non xanh hữu tình.
Vì sao trong ca dao cái đẹp của phong cảnh thường gắn với
hình tượng “núi sông”, “sơn thủy”,
“nước non”, “non xanh nước biếc”? Ở đây có thể có nhiều cách giải thích khác
nhau. Trước hết chúng ta thấy trong sâu thẳm ý thức con người, những gì hài hòa thường là cơ sở tạo nên cảm giác đẹp, dễ chịu, ưa
thích. Trong tư duy phương Đông, hài hòa lớn nhất là hài hòa giữa Âm và
Dương. Từ cặp hài hòa Âm – Dương sẽ đẻ ra vô số cặp hài hòa
khác, phổ biến nhất là những cặp hài hòa mang tính cân đối, đối xứng như kiểu:
ngày – đêm, trên – dưới, trong –
ngoài, lên – xuống, trưa - tối v.v... Trong ca dao có rất nhiều câu thơ thể hiện
nét tư duy ấy:
Thương em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.
*
Một người trên núi non Bồng
Một người dưới biển dốc lòng chờ nhau.
*
Ngược
xuôi lên thác xuống ghềnh
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.
Núi - sông sở
dĩ trở thành biểu tượng của vẻ đẹp phong cảnh bởi vì nó là cặp hài hòa lớn
nhất, rõ rệt nhất, huống chi ngoài điều đó ra, ở nước ta núi - sông vốn gắn bó
chặt chẽ với cuộc sống của con người, mọi công việc làm ăn, đói no, mọi sinh hoạt
vui buồn đều gắn với sông, với núi; sông núi rất gần gũi, thân thiết với con
người. Tất cả điều đó làm cho sông núi dễ trở thành biểu tượng tiêu biểu của cái đẹp phong cảnh thường được
nhắc đến trong ca dao.
Ngoài ra, ở
đây cũng còn một lí do nữa. Sở dĩ ca dao tả phong cảnh thường nói đến sơn - thủy, nước - non có lẽ một phần
vì theo quan niệm cổ xưa của
phương Đông, núi sông là cốt tủy của sự sống, núi không thể thiếu sông, sông cần
phải có núi, thiếu một trong hai cái đó, sự sống không tồn tại, như dương thiếu
âm, âm không có dương. Hình ảnh sông núi bên nhau bởi vậy trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của vũ trụ, của đất
trời. Để giải thích vì sao tranh sơn thủy Trung Hoa thường vẽ cảnh núi sông, danh họa đời Bắc Tống Quách Hy đã
viết: “…núi có sông thì sinh động, có cây cỏ thì đẹp tươi, có khói mây thì mỹ lệ.
Sông lấy núi làm khuôn mặt, lấy đình, tạ làm vui mắt, lấy người câu cá làm tinh thần. Cho nên sông có núi thì
đẹp… Đó là sự bố trí của núi sông”(6). Trong ý nghĩa ấy có thể nói những câu ca
dao về thiên nhiên là những bức tranh sơn thủy.
Bên cạnh “sơn
thủy”,”nước non” khi nói đến phong cảnh, trong ca dao còn thường gặp hai chữ “hữu tình”:
Nhìn xem phong cảnh
làng ta
Có sơn,
có thủy bao la hữu tình.
*
Sáng trăng dạo cẳng đi chơi
Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.
Ở đây vẻ đẹp của sơn thủy không chỉ còn là vẻ đẹp của sự
hài hòa như bản chất của sự sống mà
còn mang một sắc thái khác – sắc thái của tình yêu. Cảnh đẹp là cảnh phải
có tình. Tình ở đây trước hết là tình yêu lứa đôi, có sơn có thủy, có mình có
ta. Sơn thủy sở dĩ đẹp vì nó
tượng trưng cho tình yêu, tượng trưng cho hình ảnh người con trai và người con gái cho sự sống
có cặp có đôi:
Nước non, non nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ, xin đừng xa nhau.
Chính từ cảm hứng
về vẻ đẹp của nước non như biểu tượng của tình yêu trong ca dao, Tản Đà
đã viết nên bài “Thề non nước” nổi
tiếng:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non…
Như chúng ta
thấy cảnh đẹp là cảnh “hữu tình”. Nhưng “hữu tình” không phải chỉ là đẹp. “Hữu tình” cũng không phải chỉ
gắn với tình yêu:
Ở đây sơn thủy hữu
tình
Có thuyền, có bến,
có mình có ta.
*
Đại Hoàng phong cảnh
hữu tình
Của nhiều đất rộng,
gái xinh, trai tài.
*
Kim Liên phong cảnh
hữu tình
Dương
cơ cũng lịch, địa hình cũng vui.
“Hữu tình” còn gắn với hạnh phúc, no ấm, với độ phì nhiêu
của đất đai, với cuộc sống tấp nập và với chính sự hiện diện đẹp đẽ của con người.
Rõ ràng cả ở đây thẩm mỹ của dân gian rất nhất quán: cái đẹp luôn gắn với cái
có ích. Nhưng ở đây cũng cho thấy một nét tính cách nữa của người Việt, đó là
coi trọng chữ tình. Cảnh quí không phải chỉ đẹp mà còn phải hữu tình, hay nói
cách khác, đẹp là phải hữu tình, khen một phong cảnh “hữu tình” thì không chỉ
là khen nó mỹ miều mà còn khen nó vì nó gợi ra những liên tưởng về tình yêu hoặc cuộc sống no ấm. Chữ
tình này là một đặc điểm nổi bật trong tính cách người Việt, thể hiện cả trong
thị hiếu thẩm mỹ, trong tình yêu, trong cuộc sống và do đó cả trong văn học,
trong ca dao:
Yêu nhau căn dặn đủ
điều
Càng say về nết,
càng yêu vì tình
*
Sống mà chẳng có chữ
tình
Thì em cũng quyết
liều mình cho xong.
Tìm hiểu đặc điểm của thiên nhiên và phong cảnh như ngọn nguồn của cảm xúc về cái đẹp trong
ca dao, chúng ta thấy những cảnh “hữu tình” thường là những cảnh động:
Ở đây phong cảnh vui thay
Trên chợ dưới bến lại có gốc cây hữu tình.
*
Trên trời có đám
mây vàng
Bên sông nước
chảy có nàng quay tơ.
Người dân quê
tuy cuộc sống vất vả, làm lụng cực nhọc, hứng chịu đủ hậu quả thiên tai và bất
công xã hội, nhưng nhìn
chung cái nhìn của họ về cuộc sống vẫn trong sáng, thấm đượm lòng yêu thiên
nhiên, yêu đời. Không có cái nhìn ấy không thể ngắm và vui với phong cảnh quê hương. Niềm vui ấy làm cho cảnh vật trở nên
sống động, linh hoạt, tràn đầy sinh khí:
Trời xanh dưới nước cũng xanh
Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.
*
Vì mây cho núi lên trời
Vì cơn
gió thổi hoa cười với trăng…
*
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai làng
Dưới
sông cá lội từng đàn tung tăng.
Thị hiếu thẩm
mỹ dân gian bộc lộ ở đây không chỉ thể hiện cái nhìn lạc quan về cuộc sống.
Trong gốc rễ sâu xa, nó gắn liền với vũ trụ quan của người dân quê, với ý niệm thô sơ về tự nhiên, xem sự sinh trưởng và vận động của
vạn vật là sự sống và bản thân sự sống đã là đẹp. Đối với người dân quê,
quả thực “cái đẹp là cuộc sống”. “Trên một mức độ nào đó, cây xào xạc, cành cây
đu đưa, lá cây run rẩn cũng làm ta nghĩ đến cuộc sống của con người… Một phong
cảnh đẹp là khi nó có hoạt khí”(7). Cái “hoạt khí” toát lên từ cảnh gió thổi,
sóng xao, hoa cười, cá lội tung tăng
chứng tỏ phong cảnh trong những câu ca dao trên tràn đầy sự sống và do đó theo
thểm mỹ của những người dân quê, nó cũng tràn đầy cái đẹp.
Điều này cho
phép chúng ta giải thích thêm một đặc điểm nữa của thiên nhiên và phong cảnh
trong ca dao – đó là vì sao trong ca dao thường bắt gặp rất nhiều màu xanh:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
*
Cát Chính có cây đa xanh
Có đường cái lớn chạy quanh trong làng.
*
Dừa xanh trên bến hai hang
Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.
Không chỉ “rau
xanh” (con cò lội bãi rau xanh/ Đắng cay chịu vậy than rằng cùng ai) mà
còn có “sen xanh” (Xuống đầm ngắt lá sen xanh/ Thấy chim loan phượng đỗ cành
xoan nâu), “nải chuối xanh” (Lọng vàng che nải chuối xanh/ Tiếc con chim phượng đậu nhành tre khô), rồi đến “đồng
xanh” (Đường về Đông Việt loanh quanh/ Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ), “rừng
xanh” (Muốn tắm mát xuống ngọn sông Đào/ Muốn ăn sim chin thì vào rừng
xanh), “núi xanh” (Chim khôn bay lượn ngang trời/ Trong non non biếc, trông
người người xa).
Đáng chú ý
là không chỉ đồng xanh, rừng xanh, mà cả biển cũng xanh, trời cũng xanh, mây
xanh, sông xanh, nước xanh, hồ xanh,
đến chim cũng xanh:
Rừng xanh cả biển cũng xanh
Để xem cây quế ngả cành về đâu.
*
Trên trời có đám mây xanh
Có bông hoa lí, có nhành mẫu đơn.
*
Sông xanh phẳng lặng nước đầy
Tình chung hai chữ nghĩa này giao hoan.
*
Ai đi qua đò có biết
Dòng nước
trong xanh biết là bao.
*
Con chim nhạn xanh xếp cánh bay chuyền
Phận em là gái thuyền quyên má đào.
Sự đậm đặc của
màu xanh trong ca dao rõ ràng là sự phản ánh màu sắc của thiên nhiên nước ta, một vùng đất nhiệt đới có nhiều
cây xanh, nhiều rừng, nhiều cánh đồng trồng lúa và có bờ biển dài từ Bắc đến
Nam. Nhưng không phải chỉ như vậy. Cây xanh, đồng xanh, rừng xanh luôn luôn là
biểu tượng của sự sinh trưởng, tốt tươi, trù phú. Màu xanh ở đây không chỉ là
màu của thiên nhiên mà còn là màu của sự sống. Màu xanh trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của tự nhiên tràn đầy
sức sống. Màu xanh cũng thể hiện cái nhìn tươi mới, yêu đời của người dân quê đối với phong cảnh
thiên nhiên, thể hiện một nét đáng yêu trong thẩm mỹ dân gian. Chính cái màu
xanh ấy và cùng với nó là những rung động thẩm mỹ chứa đầy tình yêu sự sống
đã đi vào sáng tác của văn chương bác học làm cho câu thơ mang đậm chất thẩm mỹ dân gian:
Cỏ xanh như khói bến Xuân tươi
Lại có mưa Xuân vỗ nước trời.
(Nguyễn Trãi)
Cỏ non xanh tận
chân trời
Cành lê trắng điểm
một vài bông hoa.
(Nguyễn
Du)
Sóng cỏ xanh tươi
gợn tới trời.
(Hàn Mặc Tử)
Cái đẹp thiên
nhiên là nguồn cảm hứng lớn của ca dao. Nó là cái đẹp đầu tiên, cái đẹp có trước.
Người có đẹp thì người cũng
chỉ là một bộ phận của tự nhiên: “Người ta hoa đất”. Trong thẩm mỹ dân gian vẻ
đẹp của con người và thiên nhiên hòa với nhau, tô điểm cho nhau, nhưng
dường như cái đẹp của thiên nhiên vẫn cao hơn, như là thước đo, như là chuẩn mực:
Thấy em mắt
phượng môi son
Mày ngài da
tuyết đào non trên cành.
Điều này giải
thích vì sao trong ca dao vẻ đẹp của con người thường được ví với cây, với
lá, với hoa:
Em như cái búp hoa hồng
Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu.
*
Gái Dự Quần đẹp như
hoa lí
Trai thanh tân có ý
mà theo.
*
Nhác trông thấy một
bóng người
Răng đen nhưng nhức, miệng cười như hoa.
Vẻ đẹp của
thiên nhiên tràn ngập trong ca dao, hiện lên trên phong cảnh, trên hình
dáng và khuôn mặt con người. Thái độ
đối với cái đẹp của thiên nhiên ấy vừa phản ánh vũ trụ quan thô sơ của người
dân quê coi con người và thiên nhiên như là một, vừa nói lên tình yêu của
họ đối với thiên nhiên, một tình yêu vừa có ý nghĩa mỹ học sâu sắc, vừa chứa đựng
trong nó một nhãn quan về môi trường
rất nhân văn và hiện đại.
Tìm hiểu
cái đẹp của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao chính là tìm hiểu cách con
người cảm nhận vẻ đẹp của thế giới
xung quanh, tìm hiểu đặc điểm của những rung động thẩm mỹ đã để lại dấu
vết trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, trong cách đề cao, khen ngợi những cảnh
vật được ưa thích. Từ những khảo sát bước đầu trên đây, chúng ta thấy tình yêu
thiên nhiên, trong đó có yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi
bật trong tính cách người Việt. Đối
với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có sơn có thủy, sông núi hài hòa,
núi sông uốn lượng mềm mại, cảnh vật
luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống (“xanh tươi”) nhưng cũng
đầy tình tứ, gắn bó, tương
thông với con người (“hữu tình”). Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển
chuyển và màu sắc tươi tắn còn
là hình ảnh của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ
nhau mà gắn chặt với nhau.
Nghệ thuật là
nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, nhưng cái đẹp
không chỉ có trong nghệ thuật. Cái đẹp có cả trong thiên nhiên trong phong cảnh.
Rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ
của con người. Tìm hiểu những rung động thẩm mỹ thể hiện qua ca dao truyền
thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt và tìm hiểu cái
đẹp của nghệ thuật. “Mỹ học tự nhiên sẽ cho chúng ta những cơ sở cần thiết để xây dựng triết học nghệ thuật”(8).
NGUYỄN THỊ
KIM NGÂN
Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
số 635, tháng 11/2014
Chú thích:
(1) Hà Văn Tấn – Bản sắc văn hóa Việt
cổ, trong sách: “Đến với lịch sử Văn hóa Việt Nam”, Nxb. Hội Nhà Văn, 2005,
trang 151.
(2) Ca dao trích dẫn được lấy từ bộ sách: Nguyễn Xuân Kính, Kho tàng ca dao
người Việt (2 tập), Nxb. Văn hóa Thông tin, 2001.
(3) Từ trong di sản… Nxb. Tác phẩm mới, HN, 1981, trang 32,62,76.
(4) Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Bốn phương, HN, 1951, trang
22.
(5) Xem Đinh Gia Khánh: Câu mở đầu trong ca dao,…. .
(6) Theo Lưu Cương Kỷ - Phạm Minh Hoa: Chu Dịch và Mỹ học, Nxb Văn hóa – Thông
tin, HN, 2002, trang 46.
(7) N.G. Tchernyishevxki. Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật với hiện thực. Nxb.
Văn hóa – Nghệ thuật, HN, 1962, trang 27,28.
(8) Vladimir Soloviev: Cái đẹp trong thiên nhiên, trong sách “Siêu lý tình yêu” (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb. Tri Thức, Hà Nội, tập
3, trang 9.
ĐỌC BÀI KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét