Năm ông qua đời, cha tôi tuy mới lên 5 tuổi nhưng đã được xem nhiều tích tuồng của
Đào Tấn. Sau này lớn lên, là một nghệ sĩ tuồng, ông rất kính trọng tên tuổi và
tài năng lớn lao của nghệ nhân Đào Tấn.
Người dân xứ
Nghệ chúng tôi, trong đó có các nghệ sĩ tuồng truyền thống, rất tự hào vì
đã theo bước chân cụ Đào, gìn
giữ lấy nghệ thuật tuồng mà Đào Tấn đã xây dựng, phát triển trên mảnh đất hát
phường vải, hát ví, giặm, ca trù... nổi tiếng.
Và nghệ thuật hát bội Bình Định, nhờ công lao của cụ Đào,
đã thăng hoa rực rỡ, đạt tới những đỉnh cao chói lọi với thời gian mười năm, ở
chính trên mảnh đất quê hương Lam Hồng
địa linh nhân kiệt...
Danh nhân Đào Tấn
Đào Tấn đã
làm quan dưới triều Nguyễn hơn 30
năm. Ngoài hơn 2 năm đi làm Tri phủ Quảng Trạch (Quảng Bình) và một thời
gian ngắn làm Tổng đốc Nam Ngãi; ông sống ở Kinh thành Huế gần 18 năm với các
chức vụ Hiệu thư, Phủ doãn Thừa Thiên, bốn lần làm Thượng thư các bộ Lễ, Hình, Binh và sống ở An
- Tĩnh (tức Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay) hơn 10 năm; với hai lần làm Tổng đốc từ 1889 đến 1894 và 1898 đến 1902. Như
vậy là, ngoài quê hương Bình Định; có thể nói, Kinh thành Huế và vùng đất
An - Tĩnh có vị trí hết sức quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo của
nhà thơ, nhà hoạt động Tuồng kiệt xuất
Đào Tấn.
Tại Kinh thành
Huế và thành Vinh (thủ phủ An - Tĩnh), hoạt động nghệ thuật của hậu tổ tuồng
Đào Tấn chủ yếu diễn ra tại hai rạp hát “Duyệt Thị Đường” (rạp hát của triều
Nguyễn trong Đại Nội được hình thành từ đời vua Minh Mạng); còn rạp “Như Thị Quan” là rạp hát của riêng Đào Tấn
cho dựng trong dinh Tổng đốc An - Tĩnh , từ khi ông đến nhậm chức. Phải nói rằng,
từ “Duyệt Thị Đường” đến “Như Thị Quan” là cả một cuộc cách mạng trong thế giới
quan, nhân sinh quan và trong nghệ thuật tuồng hát Đào Tấn…
Thế rồi, trên
cương vị Phủ doãn Thừa Thiên - ông quan tưởng chừng chỉ biết làm thơ, hát bội này - đã thế vua hành đạo, dùng
thượng phương bảo kiếm do Thành Thái
trao, xử chém Bồi Ba, một tên tay sai thân tín của Khâm sứ Pháp và Nguyễn Thân;
gây nhiều tội ác với dân lành vùng Đông Ba, An Cựu ở Huế. Vì thế, Khâm sứ
và Nguyễn Thân ép vua Thành Thái điều Đào Tấn ra làm Tổng đốc An - Tĩnh, hòng mượn tay phong trào Cần vương xứ Nghệ trừ
khử ông tại vùng đất nóng bỏng này.
Rời chốn kinh
kỳ, nơi ông đã sống hơn 15
năm, đã thành danh một vị quan thanh liêm, cương trực; được triều đình ban tặng các chữ
vàng “Thanh - Thận - Cần” (trong sạch, thận trọng, chuyên cần) và “Bất úy cường ngự” (Không sợ uy vua); một nhà biện
tuồng được vua bút phê là “Kỹ thuật thần diệu”; để đến với một vùng đất được
coi là hết sức dữ dằn, nghèo kiết, lại bị tàn phá kiệt quệ trong loạn lạc là An
- Tĩnh.
Đối với nhiều
quan lại đương thời, có lẽ đó là một sự đày ải khủng khiếp, nhưng với Đào Tấn,
đây lại là một niềm vui, một sự giải thoát lớn, để ông bắt đầu những sáng tạo
nghệ thuật mới.
Trước khi ra tựu
nhiệm ở An - Tĩnh, Đào Tấn đã là một nhà soạn tuồng nổi tiếng. Từ ngày bước vào cửa quan, Đào Tấn may mắn được ăn
lộc vua để làm việc soạn tuồng, một công việc mà ông rất say mê. Hơn mười năm ở
trong cung với ông vua mê hát bội Tự Đức, Đào Tấn đã viết được nhiều bộ
tuồng như “Đãng khấu”, “Bình địch”, “Tứ quốc lai vương”, “Tam bảo thái giám thủ
bửu”, “Quần trân hiến thụy”; hàng chục pho tuồng dựa theo truyện Tàu và 36 hồi
chót của “Vạn bửu trình tường” từng
được Tự Đức bút phê “kỹ thuật thần diệu”.
Nhưng trừ vở
“Tân Dã đồn” hay thường gọi là “Từ Thứ qui Tào” do ông “lén vua” viết để
ký thác tâm sự, còn lại đều là những vở theo phụng sắc mà viết, có thể rất hay
nhưng chưa phải là những gì
tâm đắc nhất của ông. Khác với vua quan nho sĩ đương thời, hầu hết coi tuồng
hát là trò mua vui, là nghề “xướng
ca vô loại”, Đào Tấn hết sức đề cao vai trò và sức mạnh của tuồng hát.
Trích đoạn tuồng “Đào Tấn” nhân dịp
kỷ niệm ngày sinh của ông.
Theo ông “Muốn làm mới mẻ dân trong một nước, không thể không làm hưng thịnh Tuồng hát. Do
đó, muốn làm mới mẻ đạo đức... muốn làm mới mẻ tôn giáo... muốn làm hưng thịnh
nghề học thì phải làm mới mẻ Tuồng hát. Đó là Tuồng hát chi phối con đường
của người ta vậy”, và “Sức mạnh của Tuồng hát như thuỷ ngân chảy xuống đất, không có lỗ nào là không vượt qua.
Có thể nói là
vĩ đại”… Thời đó, có những bậc thức giả coi “Truyện Kiều” của đại thi hào nguyễn
Du là “dâm thư”, thì Đào Tấn lại hết sức ca ngợi: “Nguyễn hầu soạn Đoạn
trường tân thanh hay vượt xưa nay, trong đó Vương Thuý Kiều há không phải là người đẹp trên đời không ai sánh kịp sao?”.
Và ông muốn
nhà soạn tuồng cũng phải học Nguyễn Du “dùng bút mực tỏ rõ thảm cảnh của
kỹ nữ, để làm đòn đánh đau vào sự tàn nhẫn độc ác của chính trị đương thời”.
Đào Tấn muốn tuồng hát không chỉ là vật sở hữu của số ít người biết chữ, thông thạo văn chương mà còn
phải là ngũ kinh, tứ thư của đông đảo
quần chúng cần lao, thất học...
Những quan niệm
có tính chất cách mạng về tuồng hát trên đây của Đào Tấn khó có thể thực hiện
được trong tuồng hát nô lệ ở cung cấm, trước những khán giả là vua quan, thư lại,
hoàng gia, với những uý kỵ hà khắc, với “cánh cửa ngục văn tự” lúc nào
cũng sẵn sàng mở ra, với “lưỡi gươm
văn tự” lúc nào cũng sẵn sàng kề cổ…
Vì thế,
chỉ khi được rời khỏi kinh thành và bắt đầu nhậm chức Tổng đốc An - Tĩnh, thoát
được vòng cương toả của triều đình,
một mình thống lĩnh một cõi, ông quan yêu nước Đào Tấn, nghệ sĩ tuồng Đào Tấn mới có cơ hội thực hiện những tâm đắc
đó.
Ngay khi đến
Hoan Thành năm 1889, Đào Tấn đã cho dựng
rạp hát bội mang tên “Như Thị
Quan”, bên cạnh đó là trường dạy hát bội mang tên “Học bộ đình”. Ông tận
dụng gần như tất cả biên chế của
nhân viên và lính tráng phục dịch dinh Tổng đốc, tập hợp về đây những nghệ sĩ
tuồng nổi tiếng nhất của đất tuồng Bình Định và của An - Tĩnh, cùng nhau
tập luyện và biểu diễn tuồng.
Từ “Duyệt Thị Đường” ở Đại Nội đến “Như Thị Quan” ở thành
Vinh, đã báo hiệu một sự thay đổi có tính chất cách mạng của tuồng hát Đào Tấn.
Và mười năm trên đất Hồng Lam, tại
“Như Thị Quan”, với sự xuất hiện của hàng loạt vở diễn khác hẳn về chất so với
những tác phẩm trước đó như “Khuê các anh hùng”, “Sơn Hậu”, “Cổ thành”, “Trầm
hương các”, “Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan”, “Diễn võ đình”, “Hộ sanh
đàn”... cuộc “làm mới Tuồng hát” mà Đào Tấn hằng ấp ủ bấy lâu đã diễn ra rất mạnh mẽ.
Trước hết, các
vở diễn trên, dù về đề tài vẫn mượn tích Tàu, nhưng hoàn cảnh, nhân vật thì
đã hoàn toàn Việt Nam; và tất cả đều nóng bỏng ý nghĩa thế sự, mang đậm tính chất
chỉ trích, điều trước đây Đào Tấn đã không thể làm được ở tuồng cung cấm. Nếu
“Trầm hương các” vạch mặt chỉ tên sự thối nát, thảm hại tột cùng của các bậc
thiên tử, thì “Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan” với tiếng kêu thấu trời xanh của
Hoàng Phi Hổ -“Cái chí trung quân nát vụn rồi”- đã chính thức đào huyệt chôn
sâu cái tư tưởng trung quân lỗi thời
còn ẩn náu đâu đó.
Và cuối cùng, với “Diễn võ đình” và “Hộ sanh đàn”, Đào Tấn
đã mạnh dạn trao hy vọng, niềm tin cứu nước, cứu dân vào những người hiện đang bị đặt ngoài vòng pháp luật ở
trên núi cao hoặc đang phải tha hương: Triệu Khánh Sanh và Tiết Cương; những người anh hùng đang phải vay rất nhiều
nợ gian nan mà Đào Tấn từng nói rằng, đó là hình ảnh của các chí sĩ xứ
Nghệ - Phan Bội Châu và Phan Đình Phùng - trên sân khấu của ông...
Đã trên một thế kỷ từ ngày Đào Tấn đi xa - nhưng một nghệ sĩ lớn mà cuộc đời đã trải qua không ít
thăng trầm đó - đã trở thành niềm tự hào của Bình Định quê hương ông; cũng như của xứ Nghệ và của cả dân tộc
Việt Nam, trong lịch sử hình thành và phát triển nền sân khấu truyền thống
dân tộc!
LÊ HUY QUANG
Nguồn: VNCA
ĐỌC BÀI
KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét