Nhà văn Văn Chinh. (Ảnh: X.T.).
Trong cuốn chân dung văn học “Miền lưu dấu văn nhân” (NXB
Hội Nhà văn, 2013), ở bài viết về Văn Chinh, nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế kể lại
rành rẽ cái ấn tượng hơn ba mươi năm trước của mình, năm 1980, khi gặp Văn
Chinh ở một trại sáng tác do Hội Văn nghệ Vĩnh Phú tổ chức: “Chiếc túi đen
ka-ki thêu một bông hoa cúc tí xíu, đựng bản thảo ngoắc ghi-đông. Ba-lô quần áo
cũng buộc luôn đó. Áo sơ-mi cộc tay, mỏng như xô màn, đóng không hết khuy để lộ
ra mảng ngực nâu bóng, căng tràn nhựa sống. Quần vải tổng hợp màu rượu chát, từng
được chạy qua bàn là phẳng căng nhưng chủ nhân ưa ngồi xổm nên nó đã kịp xoắn lại
như lò xo ngang ống chân gân guốc” (“Văn Chinh và đối cực”). Chân dung một nhà
văn tỉnh lẻ thời bao cấp, vừa nồng nã bụi đất quê lại vừa phơi phới cái ngang
tàng Lương Sơn còn được Nguyễn Tham Thiện Kế nhấn thêm vào một nét nữa, nét khụng
khiệng kiểu cụ lý ở giữa chốn đình trung: “Khi ăn, Văn Chinh chọn ngay mâm
chính giữa, ngồi vị trí trang trọng, cầm đũa huơ lên, cười bên này ngóng bên
kia rồi mới bàn chuyện văn chương. Toàn bàn những chuyện không giống ai. Bao giờ
cũng bắt đầu một câu quen thuộc, trịnh trọng nhuốm gây sự: Xin được hỏi ông
(bà)... đây là nghị quyết hay là bản báo cáo tình hình sản xuất. Nếu là văn
chương thì con người đâu?”.
Hơn ba mươi năm, ngót bốn mươi năm trôi qua, ông nhà văn
Văn Chinh của bây giờ vẫn giữ được sự “không giống ai” mà Nguyễn Tham Thiện Kế
từng nhận thấy. Năm 2018, nhà văn Văn Chinh tròn 70 tuổi, ông cho công bố tập
truyện ngắn có cái tên “Thần thức dưới rêu phong” (NXB Hội Nhà văn) gồm nhiều
truyện được ông viết ở nhiều giai đoạn khác nhau trong đời cầm bút, nên về cơ bản
cũng có thể xem như một tuyển tập mang tính đại diện nhất định cho diện mạo và
phong cách truyện ngắn của mình. Có thể nói ngay rằng: những truyện ngắn này đã
có công góp vào cái “không giống ai” cho Văn Chinh, vì bản thân chúng cũng rất...
không giống ai.
Không giống ai, bởi trước hết, về cấu trúc, hầu hết các
truyện ngắn của Văn Chinh đều lệch/ chệch hoặc đi hẳn ra ngoài các mô hình cấu
trúc truyện ngắn phổ biến. Những khái niệm mà ta thường gặp trong phân tích
truyện ngắn, như: “một lát cắt của hiện thực đời sống”, “khoảnh khắc truyện ngắn”
hay “cao trào”, “thắt nút”, “mở nút”, v.v… đều khó mà áp được vào các truyện ngắn
của ông. Cách kể chuyện của Văn Chinh, từ nhập đề, đến dẫn dắt câu chuyện và kết
thúc, mang khá đậm hơi hướng, cung cách của truyện kể truyền miệng, kiểu “đêm
hè mẹ kể con nghe”, hoặc truyện kể của những nghệ nhân hát rong thời xa xưa nơi
góc đình quán chợ. Chúng “mềm” về bố cục, mềm tới mức luôn có xu hướng chảy
tràn và làm loãng cốt truyện bởi những trữ tình ngoại đề hoặc những tình tiết mới,
được nảy sinh theo một cách bất ngờ và khá “mất trật tự”. Đấy là nét duyên của
Văn Chinh, khi ông có thể khiến độc giả được hưởng thụ cái khoái thú của “miên
man đọc” trong sự chế định của “rề rà kể”. (Khi viết “Thay lời giới thiệu” cho
tập truyện ngắn này, nhà văn Sương Nguyệt Minh nhận định: “Cái sự rẽ dọc rẽ
ngang miên man này cũng là cái khác lạ làm nên giọng điệu Văn Chinh. Tuy nhiên,
cái ranh giới giữa trữ tình ngoại đề nghệ thuật với “khoe” kiến thức triết học,
sử học, văn hóa… rất mong manh, không phải lúc nào ông cũng dẫn dắt được mạch cảm
xúc nghệ thuật”). Nhưng đấy cũng chính là nguyên do khiến không ít lần người đọc
có cảm giác hẫng hụt khi truyện ngắn Văn Chinh đi đến cái kết của nó. Kết truyện,
nhưng câu chuyện không chịu khép lại, nó cứ ở đấy, ngổn ngang những người và việc,
dở dang như sự đời vốn chẳng mấy khi được chu toàn như ta muốn, xộc xệch như những
thiên đường không bao giờ hoàn hảo. “Ai biết mộ liệt sĩ ở đâu”, “Mừng nỗi buồn
qua”, “Chiếc đồng hồ một kim”, “Chị Mỵ làng Minh Quang”, “Con tàu tuổi thơ”,
“Mùi trần”, “Ghi chép của ngài Appin về con ngựa hãn huyết”, v.v… là những truyện
ngắn như thế. Thử lấy ví dụ bằng truyện “Ghi chép của ngài Appin về con ngựa hãn
huyết”, giải Ba truyện ngắn 2011–2012 của báo Văn nghệ, theo tôi, được cấu
thành từ một chủ ý tạo nên nhiều nghi vấn và… chưng hửng. Ngay dưới nhan đề
truyện, tác giả chua một dòng lạc khoản: “Gửi tác giả Tô-tem sói”, nhưng rốt cuộc,
đọc mãi nghĩ mãi tôi vẫn không dò ra được cái mối liên văn bản giữa tác phẩm của
Khương Nhung với câu chuyện lưu lạc đầy ly kỳ mà con ngựa hãn huyết nòi Mông Cổ
kể lại với ngài Appin? Chưa hết, cứ theo như phi lộ vào truyện thì ngài Appin
sang Mông Cổ là để xem ở những nước hay gây chiến thì “hoàng gia được cái gì,
thường dân được cái gì trên những cái chết của các chiến binh”, nghĩa là một lý
do hết sức nghiêm trọng, và quả thật, câu chuyện mà con ngựa hãn huyết được
đánh số 054 ấy kể lại cũng đầy vẻ nghiêm trọng, khi phần nào nó phơi bày được
những cái nhếch nhác quái quỷ mà chiến tranh, và những sự kiện còn hơn cả chiến
tranh, đã gây nên trong đời sống của đại chúng cần lao. Thế nhưng, phần kết
truyện, lời đáp cho mối băn khoăn của ngài Appin lại là một cú chơi khăm với
cái nghiêm trọng, khi Tổ của con 054 dặn cháu mình rằng: “hễ thấy trong người rậm
rật thì hãy tạm ngừng ăn nếu trong đàn không có ả nào động dục, chớ để rậm rực
lâu ngày tất sinh tính ác”. Một cách lý giải đầy trào tiếu về “tính ác” như là
cái căn rễ của hành vi phát động chiến tranh. Và bởi thế, mới có câu khép lại
thiên truyện mà thật ra là chẳng khép lại cái gì, của ngài Appin: “Đêm ấy… lần
đầu tiên tôi biết trong việc ngủ với đàn bà là có tinh thần nhân đạo, nên sướng
hơn mọi bận. Kể cả trừ đi phần tương tác là người nước ngoài, vẫn còn sướng
hơn”.
Tôi muốn nói thêm về một đặc điểm nữa, khá trội bật, ở những
truyện ngắn loại này của Văn Chinh: chúng “ngắn”, nhưng lại mang tham vọng ôm
trọn những hiện thực dài rộng, có khi đến cả một đời người. Những cuộc trăm năm
nhân thế với biết bao cơn chìm nổi ấy, đương nhiên, miền dư địa đầy vẫy gọi của
nó phải là tiểu thuyết. Còn thể loại truyện ngắn, với trên dưới mười trang sách
in, sẽ là một thách thức không nhỏ cho người viết trong việc bày binh bố trận,
dàn dựng cảnh huống, lọc lựa chi tiết trước sau để tạo lập một cấu trúc văn bản
chặt chẽ, tuy nhỏ gọn mà vẫn đủ sức dung chứa những ba động lớn của cuộc đời.
Truyện ngắn của Văn Chinh, nói chung, thỏa mãn đòi hỏi ấy. Thế nhưng, nó vẫn
không khỏi gợi lên cái mà ở trên, tôi tạm chỉ định bằng cụm từ “mất trật tự”.
Tôi sẽ lấy truyện“Ai biết mộ liệt sĩ ở đâu”, giải Ba truyện ngắn 2005–2006 của
tạp chí Văn nghệ Quân đội, làm ví dụ. Truyện ngắn này không kể một cuộc đời, mà
kể đến năm cuộc đời: người mẹ không chồng mà chửa, đứa con không cha, ông bố dượng
đầy “chất nghệ”, ông bố đẻ “một vị tướng có tài, chỉ mỗi tội thích ngủ với gái
non”, và ông bố hờ chẳng được tích sự gì ngoài việc làm kẻ “tráng men” cho đứa
khác, rồi chết. Tác giả cố tình để giọng của người kể chuyện và giọng của nhân
vật nhòe lẫn với nhau, rất khó bóc tách.
Không giống ai, bởi ở tuyển tập này Văn Chinh còn có một
mảng truyện ngắn mà ở lời “Tựa”, ông tự gọi là “viết lại”, học theo cách “Chuyện
cũ viết lại” của văn hào Lỗ Tấn. Bộ ba truyện “Thị” – “Puellae” – “Gái”, rồi
các truyện “Dưới rêu phong”, “Trái tim bốc khói”, “Cựu hoàng”, “Văn tự án liệt
truyện”, v.v… là những truyện khá tiêu biểu. Viết lại của Văn Chinh không nhằm
vào một văn bản cụ thể, mà là liên và xuyên văn bản. Đặc biệt, khi sự viết lại
diễn ra ở khu vực của thư tịch lịch sử, như truyện ngắn “Dưới rêu phong”, Văn
Chinh hiện diện như một nhà văn đang hăm hở tranh cãi với sử gia về cái gì là sự
thật: sự thật của việc một vương triều sụp đổ, sự thật trong tâm hồn một bà
hoàng hậu mà sau bao nhiêu thế kỷ, thành tượng thờ rồi, ánh mắt “còn thèm khát
thế kia!”. Không những thế, có thể nói, “Dưới rêu phong” còn là một sự giải ảo
lịch sử của Văn Chinh: những rồng bay phượng múa huyền hoặc, những sơn son thếp
vàng lung linh về hai triều Đinh, Lê trong tâm thức hậu thế đã bị nhà văn gột sạch
bằng cách kể chuyện thấm đẫm tinh thần trào tiếu nhưng lại tàn nhẫn như lột vỏ
củ hành. Lột hết lớp này đến lớp khác, lột đến đâu cay mắt đến đấy, để rồi cuối
cùng sự thật hiện ra, trơ khấc. Rằng triều đại khai mở cho nền độc lập dân tộc
thật ra vô cùng hoang sơ, cái gọi là vương pháp chưa hề được thiết định chặt chẽ,
những thúc đẩy bản năng của con người có khi còn mạnh hơn sức ràng buộc của đạo
đức và các lợi ích chính trị xã hội. Thế nên cái việc ăn, uống và giao cấu chốn
cung đình mới phóng phiếm buông tuồng đến thế, đàn bà mới thọc tay vào chính sự
sâu đến thế, và sự chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại mới nhanh gọn và
nhiều thảm khốc đến thế
Vẫn là nhà văn Sương Nguyệt Minh bình luận: “Đọc văn Văn
Chinh tôi thấy trong ông có hai con người. Một con người có cái cách bộc trực nồng
nhiệt, có cái vẻ khệnh, vênh vênh râu, có cái bốp chát chân thành tức thì, có
cái lọc lõi trải đời, có cái sự chịu đọc, có cái thất thần thảng thốt, có cái
“sục sặc không yên” (chữ Vương Trí Nhàn dùng). Một con người có cái khờ dại
đáng yêu, có cái yếu đuối mặc cảm cứ gồng lên”. Như thể để chứng minh bình luận
ấy, nhà văn Văn Chinh cho biết, tuyển tập truyện ngắn “Thần thức dưới rêu
phong” này là cú chuẩn bị cho sự ra mắt một tác phẩm mà ông ấp ủ đã lâu, cuốn
sách cuối cùng của một đời cầm bút: tiểu thuyết “Nằm ngửa đấm với”. Nằm ngửa đấm
với, hình ảnh ấy có thể “đọc” như một nỗ lực chân thành nhưng đầy tuyệt vọng,
chính vì thế mà nó hài hước, thậm chí như trêu ngươi. Và đương nhiên, cũng là một
sự không giống ai.
BẢO TRÂN
Nguồn: Tinh Hoa Việt
ĐỌC BÀI KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét