Nhà văn Nguyễn Việt Hà
Đó là một buổi chiều cao nguyên. Con đường xương cá khởi
đi từ Bảo Lộc, không hẳn cong queo, dài mãi dài mãi dễ tới sáu chục cây số. Một
chỗ hẹn uống rượu mà đi ngần ấy thôi đường thì đương nhiên chỗ đến phải là chỗ
đáng kể. Triền miên đất đỏ. Hầu như tất cả những khung cửa sổ lúc đi ngang, đều
thấy một vài thiếu phụ đang ngồi. Hoặc một mình, hoặc hơn một mình. Nhầu cũ bám
bụi uể oải.
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ như
móng chân gà mái. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm...
Đàn bà Việt khi tận cùng của tần tảo vất vả thì ở đâu
trông cũng giống hệt nhau. Và tệ hơn, thời nào cũng vậy. Đành nhấp một ngụm
Whisky lớn từ cái "bình toong" dẹt bằng inox, quà của một người bạn Mỹ
vốn mê thơ của cái tay thi sĩ chợt nhớ này. Người bạn Mỹ chỉ biết viết văn
xuôi, hình như là một cựu chiến binh, bảo. Đã mông lung đi chơi xa thì nên vui,
vậy mà không hiểu sao mỗi lần đi lang thang lại luôn bị ám ảnh bởi.
Con tầu chuyển động. Không. Nhà ga chuyển động. Không.
Thành phố chuyển động. Không. Con cá bơi. Không. Nước bơi. Không. Dòng sông
bơi. Không. Con chim bay. Không. Cái cây bay. Không. Bầu trời bay. Không. Tất cả
không. Chỉ cái chết chuyển động. Và mang theo chúng ta.
Những câu chữ buồn bã tuyệt lộ. Đúng là phải đi xa một
mình thì không nên mang theo. Thế nhưng, thơ đã hay thì giống như nọc độc ở nụ
hôn đầu, nó cồn cào dai dẳng tê tái. Nó vượt ngoài của mọi tính toán tỉnh táo.
Nó kệ mẹ mọi sự. Lại nhấp một ngụm rượu nhỏ nữa, thật nhỏ thôi vì cây hai bên
đường sum súp dưới nắng xế tà chợt hun hút đìu hiu. Tự thấy thích mấy câu này
hơn.
Ai lén đổ vào chiều chút rượu.
Ngày cạn đến đâu rượu cạn theo cùng.
Đôi tất trẻ con phơi chợt giẫy lên trong gió.
Chỗ hẹn đến uống rượu là chỗ đáng kể, một sườn đồi lấm tấm
toàn hoa dại, nhưng chủ nhân mời đến còn đáng kể hơn. Đó là một người có
"nghề nghiệp" tương đối không bình thường, một linh mục tu dòng. Cái
dòng tu đó có xuất xứ từ ngoài Bắc, xa xưa một dạo là dòng khổ tu. Rồi thăng rồi
trầm hoang phế theo thời cuộc, giờ đây chỉ còn phảng phất lẫn lộn tối sáng như
trí nhớ người già. Căn phòng của người tu sĩ ở lưng chừng đồi, tuyệt vời đẹp. Cạnh
kệ sách không nhiều lắm có một tượng Giê Su dài ngoẵng nhọc nhằn của Giacometti.
Lần trước đến chơi thăm, anh bạn hoạ sĩ yêu vẽ tối giản đi cùng tiếc đứt ruột
là không cầm theo máy ảnh.
Bữa rượu song ẩm được dọn ra, nó tinh tế tiêu tao như
phong độ của chủ nhà. Chiều cao nguyên đã nhạt nắng nhưng vẫn xanh ngắt cao
vút. Khe khẽ chạm ly chúc lành nhau.
"Ông có nhớ cầm theo cuốn sách tôi nhờ mua
không".
"Dạ thưa
cha, con lại quên".
Suýt nữa thì
xin lỗi, nhưng biết đấy là lời nói dối nên lại thôi. Trước hôm lên đây có đôi dịp
ngồi "nhậu" với người viết tập thơ đó, rồi lãng đãng say quên mất lời
hứa với người bạn vong niên. Bởi nếu có hỏi xin một tập tặng cho người bạn tu
sĩ thì chắc nhà thơ rất vui. Hơn nữa, chắc sẽ cảm động. Tay thi sĩ có râu ria
"thuỷ hử" đấy, đặc biệt mến những người tu hành. Hay là kiếp trước nhỉ,
trót ở trong một nhà thờ hay một nhà chùa nào đấy.
Người đã
cho con một thân thể mạnh mẽ làm sao, rực nóng làm sao mà đau đớn làm sao. Người
đã lấy đau đớn và hổ nhục thân xác con để bọc trái tim đầm đìa máu. Và mạnh mẽ
và huyền ảo như lửa và một linh hồn trong sáng. Người đã cho con ngôn từ để con
cất lên trong cả những câu thơ chưa kịp làm lễ đặt tên đã biến mất. Con đã sinh
ra trên thế gian này, con đã uống sữa thơm và mật ngọt của người.
Món nướng của
người bạn tu sĩ rất khéo. Thành ngữ Pháp đùa, cha cố và văn sĩ là hai loại sành
ăn. Văn hào Alphonse Daudet có kể một vị cha xứ đọc bớt kinh lễ ở buổi Giáng
Sinh chỉ vì ám ảnh món ngỗng quay của bữa Réveillon sau đó. Vị linh mục thở
dài, khói thuốc không vì vậy mà loãng bớt đi. Cái thói quen liên tục hút thuốc lá
manh nha từ hồi ở trại phong, rồi thành tật trong suốt hơn sáu năm chăm sóc những
bệnh nhân hủi.
"Tôi
không thật thích những câu quá bộc trực như ông đã vừa đọc. Tôi thích thơ của
ông thi sĩ này ở những đoạn dằn vặt. Hoặc nồng nhiệt hung hãn. Hoặc thê thảm bải
hoải: "Mi phải ngày ngày ngồi trên chiếc ghế hành hình do chính mi đặt
trong chính căn phòng bé nhỏ của mi. Và đêm đêm mi phải ngồi trước mi như bóng
tối đối diện ánh sáng." Ông là người trẻ thích lang thang, nên có thể khó
chia sẻ với một người đã trung niên có bổn phận phải một mình ngồi nhiều. Khi
minh mẫn lương thiện cô đơn ngồi lâu, người ta rất hay dằn vặt. Nhà Phật hình
như gọi là sám hối. Ông nhà thơ này đã tìm ra một cách công chính để ngợi ca sự
sám hối. Nhất là ở những bài trong thời gian gần đây".
"Bạn bè
con nhiều người nói đấy là sự cách tân".
"Các ông
là những người viết chuyên nghiệp nên có thể thích sự cách tân. Tôi thấy rằng,
tìm ra cho thơ một cách nói có lẽ là một sự trọng hơn".
Vệt nắng cuối
cùng cũng đã tắt từ lâu, gió núi bắt đầu hoang mang hơi lạnh. Người bạn tu sĩ
biết tôi là nhà văn, nên thỉnh thoảng những lúc được ngồi với nhau thì như là
ân cần chiều tôi, ông hay nói chuyện chữ. Mà lạy Chúa, còn điều gì tuyệt vời
thú vị hơn là được nói chuyện chữ với những người tử tế. Cách nói của thơ cũng
như cách sống của người, tìm được nó đúng là một đại sự. Tất cả những bài thơ
lãng mạn mệt mỏi vạm vỡ nhất trên thi đàn, đều tự chứa sâu trong nó một cách
nói. Chỉ duy nhất một cách của riêng nó thôi. Ai cùng duyên hiểu được thì đồng cảm.
Nó chẳng cần cũ cũng chẳng cần mới. Nó chẳng cần Tây và cũng chẳng cần Ta. Nó
chỉ là những xót xa cố muốn loãng đi đau đớn cho mình và cho người. Có phải
chăng vì thế mà thi sĩ đã dằn vặt định nghĩa nhà thơ.
Không là ma
quỷ không là thánh thần.
Cháy ngọn lửa
rực rỡ nhưng không giấu đất đá và củi rác phía dưới.
Các ngươi
nghi ngờ phần ánh sáng và nguyền rủa phần bóng tối.
Vị linh mục lại
rít thuốc, tàn lửa đỏ loé dài. Phía xa xa, những vệt núi cuối cùng của dãy Trường
Sơn bỗng mơ hồ sáng từ một vài ánh chớp.
"Đã nhiều
lần tôi linh tinh tự nghĩ. Thơ ca cũng như tôn giáo, nó xuất phát từ hai phía.
Một là từ ân sủng phía trên, do lòng từ bi thương người của Chúa. Hai là khát
khao hướng thượng muốn thoát khổ đau từ phía dưới chúng ta. Sứ mệnh của thi sĩ
làm thơ cũng như tu sĩ thuyết giảng là cố gắng gợi mở được cả hai điều ấy".
Tất nhiên, đấy
là quan niệm của vị linh mục lớn tuổi. Người đã từng thành kính chăm chỉ với Thần
học bẩy năm ở Paris, rồi buông bỏ bằng tiến sĩ để sống cũng ngần ấy năm chăm
sóc những bệnh nhân hủi. Nó đương nhiên mang vẻ cao đạo, thậm chí nghiêm trọng.
Biết sao được, đã có một vị thánh hiển hiện thấp thoáng ở ông. Còn riêng với
chúng ta, kể cả là nhà thơ hay bất kể là nhà gì gì nữa, thì chỉ là những chúng
sinh bình thường, đôi lúc còn bị dung tục làm thành tầm thường. Đã thế, lại còn
đang sống trong một thời hình như là mạt pháp. Phải đau đớn bất thường lắm, phải
trong trắng khác thường lắm mới chua xót "rống" lên những câu như thế
này:
Và lúc này
trong bóng tối người đàn ông, đàn bà tự mãn phát âm. Ngôn từ của họ bay ra như
một lũ ma chơi. Đấy là ngày ngôi nhà rền vang tiếng mọt. Ngôi nhà sắp sụp đổ mà
họ không hề biết...
Lúc đó
trong ngôi nhà nước chiếm ngụ mọi lối đi. Những thỏi vàng ôm nhau chờ chết.
Chúng không thể ra đi vì mọi lối đi của chúng đều bị khoá chặt. Thân xác chúng
nặng nề không thể nhắc nổi chân.
Vị linh mục hiền
lành cười, dịu dàng thông cảm với nỗi bồn chồn cay đắng của người đối ẩm, ông vừa
nghe vừa cho thêm củi vào lửa. Đêm ở núi thường có sương lạnh. Và sương nơi
hoang sơn dễ làm cho người ta mất ngủ. Vị linh mục làm dấu lành. Thật phúc cho
ai được thức những đêm mà lửa không mất ngủ.
NGUYỄN VIỆT HÀ
Nguồn: NVTPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét