Nhà văn Vũ Bằng
Tuổi 24 (1937)
Vũ Bằng đã in tiểu thuyết đầu tay "Một mình trong bóng tối" tại
nhà Trung Bắc tân văn. Rồi sau đó là các tác phẩm "Hai người" (1940), "Ba truyện mổ bụng"
(1941), "Cai" (1942), "Bèo nước (1944)... Đó là những tác phẩm
Vũ Bằng sáng tác tại miền Bắc vào giai đoạn đầu đời của mình. Chỉ tính
ngần ấy cũng đã làm nên tên tuổi một nhà văn sáng danh. Nhiều nhà văn, nhà phê
bình đánh giá cao tác phẩm thời kỳ này của Vũ Bằng, cho rằng Vũ Bằng là một
trong những người có công lớn cách
tân tiểu thuyết Việt Nam, hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam từ những năm ba
mươi.
Nhưng số phận
thật trớ trêu. Khi tiếng tăm của Vũ Bằng vừa được công chúng mến mộ thì
cũng là lúc ông dính vào thuốc phiện. Nói về hiện tượng đáng buồn này, nghệ sĩ Tạ Tỵ, bạn thân của Vũ
Bằng, trong một bút ký chân dung đã viết:
"Vũ Bằng bước chân vào văn nghiệp với một thế hệ "đàn anh" sa ngã,
trụy lạc trong những đêm dài ca quán, trong hương khói quê nâu, trong vòng môi ân tình đĩ điếm. Vì muốn tỏ ra
mình cũng xứng đáng là tay "tiểu tướng" trong chốn "giang hồ lạc phách" của "trường văn
trận bút", Vũ Bằng, với tự ái tuổi trẻ, lao đời mình vào đam mê để hủy
hoại đời sống và tin rằng mình đã làm một việc đáng làm, không ân hận gì hết, nếu
ngày nào đó thân xác mình bị vùi lấp bởi ô nhục thì cũng cứ được đi.
Cái tâm trạng chán đời của lứa tuổi thanh niên những năm
1930 - 1940, nó là mẫu số chung cho bài toán của một dân tộc bị đô hộ… Ở giữa
cái không khí ấy, chả riêng gì Vũ Bằng "bị" mà có rất nhiều thanh
niên làm văn nghệ "bị", nhưng họ không có cái can đảm và sự may mắn
kinh qua như Vũ quân, cũng chính vì
thế, họ chết dập vùi ở một xó xỉnh nào đó giữa cuộc đời ngàn vạn lối đi vào
quên lãng..."
Quả đúng vậy, Vũ Bằng dính nghiện từ rất sớm, nhưng ông lại
cũng sớm ý thức về sự tàn phá của thuốc phiện và thấy cần phải cai nghiện. Ông
có cái ý thức ấy là bởi trong lồng ngực ông vẫn còn nguyên vẹn một trái tim ẩn
chứa nhiều trắc ẩn yêu thương, biết
sám hối trước đồng loại mà trước nhất là một người mẹ, một người vợ và một người
tình.
Người cha của
Vũ Bằng mất sớm. Người mẹ, một phụ nữ tảo tần, hết lòng vì con trai. Bà
mở một hiệu sách báo ở phố Hàng Gai làm nguồn sống cho cả gia đình và đặc biệt
là vì tương lai của con trai, với
nguyện ước sau này Vũ Bằng sang Pháp du học, trở thành bác sĩ để giúp người,
giúp đời.
Vũ Bằng cưới vợ
từ năm 22 tuổi. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Quỳ, một phụ nữ miền quan họ, hơn Vũ Bằng
tới 7 tuổi. Trước đó bà đã có một đời chồng, không hợp nhau, rồi bỏ. Kết
hôn với Vũ Bằng ít lâu thì họ có con trai.
Ở cái thời điểm Vũ Bằng mới cưới bà Quỳ thì có lẽ ông đã
chưa cảm hết được những gì là
cao quý nhất, thẳm sâu nhất trong con người bà. Ông dính nghiện, sớm hôm quăng mình vào chốn ăn chơi như
không hề có mặt bà trên đời. Còn bà, bà kiên trì tìm mọi cách để khuyến khích
ông cai nghiện, kể cả lấy tình yêu mà đánh thức lòng trắc ẩn, nhưng xem ra lực bất tòng tâm.
Rất nhiều khi Vũ Bằng tỏ ra ân hận trước họ, nhưng ông chỉ thực sự mang cảm giác của kẻ tội đồ khi nhận ra chính
vì dính với thuốc phiện mà ông đã làm tàn đời một thiếu nữ trong trắng,
xinh đẹp mà ông đã rất mực yêu thương.
Thiếu nữ có tên là Liên Hường, người xứ Huế. Nàng đẹp một vẻ đài các, mong
manh, thướt tha, biết ngâm thơ, hát bội, rất "hợp khẩu vị" với một
nhà văn có tư chất "đại gia" như Vũ Bằng. Trong một cuộc tao ngộ ngẫu
nhiên hai người gặp nhau, nàng đã mê ngay nhà văn trẻ có phong độ nho
nhã hào hoa. Thậm chí, Liên Hường còn
bồng bột bỏ Huế ra Hà Nội để được sống gần nhà văn trẻ. Nàng ngây thơ theo Vũ Bằng đến tiệm, thoạt đầu nàng chỉ
xem Vũ Bằng hút, sau châm lửa phục vụ, rồi nàng hút thử và nghiện lúc nào chẳng
hay.
Với Vũ Bằng,
những ngày đầu đến với Liên Hường, chỉ có ba thứ ông tôn thờ: văn chương, Liên
Hường và thuốc phiện. Nhưng cùng với nhịp đi của thời gian, thuốc phiện ngày
càng làm xơ xác thân thể, tha hóa tinh thần hai người thì văn chương -
thứ mà Vũ Bằng không thể không có nó - chừng như cũng có những dấu hiệu cùn quằn, trì độn, suy đồi. Những gì Vũ Bằng
viết ra cứ như đang phản lại chính
ông.
Phải, chính
thuốc phiện chứ không phải tác nhân nào khác đã và đang làm thoái hóa
văn tài của ông, bóp ngẹt trái tim người mẹ, người vợ và người cô của ông; chính thuốc phiện đang dọn một con đường
thật ngắn để đưa ông và Liên Hường ra nghĩa địa.
Vũ Bằng quyết
định tự cai nghiện. Một cuộc cai nghiện cực kỳ khó khăn. Vũ Bằng đã viết
hẳn một cuốn sách kể về chuyện này. Ông gửi cho đăng tải nhiều kỳ trên báo
Trung Bắc chủ nhật từ năm 1940, đến năm 1942 (năm Vũ Bằng 29 tuổi) thì Nhà Thế
Giới in thành sách với tiêu đề "Cai", dài tới 300 trang.
Hơn hai mươi
năm sau, Vũ Bằng cho tái bản dưới một tên mới "Phù dung ơi, vĩnh biệt"
ở Sài Gòn, nghe nói sách bán rất chạy. Thanh niên Sài Gòn thời đó cũng
nghiện hút rất nhiều. Họ tìm mua sách của Vũ Bằng, ngõ hầu muốn học tập phương pháp cai nghiện của ông nhà văn nổi
tiếng.
Người ta đổ xô
tìm đọc "Phù Dung ơi,
vĩnh biệt" là còn bởi Vũ Bằng viết rất thành thực, có khi thành thực
đến phũ phàng với chính ông, về tất cả những gì diễn ra trong quá trình ông
dính nghiện và cai nghiện. Mở trang đầu cuốn sách, độc giả đã tiếp cận với những
lời "tự bạch" rất chân thành của nhà văn:
"Nếu bất ngờ trong các thanh niên, thiếu nữ có người nào cần xem cuốn sách này, tôi chỉ
mong ước một điều là đừng bao giờ nghĩ rằng tôi đem việc cai của tôi ra phóng đại
để do đó chứng tỏ thuốc phiện là nguy hiểm. Tôi chỉ mơ ước một điều là đọc xong
sách này, họ sẽ thấy rằng họ không phải là những người đơn độc trên con đường đời
muôn ngả. Trước chiến tranh, cha anh của họ cũng đã mắc bệnh thời đại, u
buồn, trống rỗng và đau xót cái đau xót của họ ngày nay...".
Khi đi vào phần chính của tác phẩm, Vũ Bằng mô tả rất chi
tiết quá trình ông dính nghiện, những hệ lụy diễn ra sau đó bằng những trang
văn rất khó quên. Chẳng hạn ông kể lần đầu ông dính với thuốc phiện là ở trên cầu
Thê Húc dẫn vào đền Ngọc Sơn, nơi có Hồ Gươm linh thiêng:
"...Nửa giờ đi qua, tôi cứ đứng vịn thành cầu mà rỏ
dãi xuống hồ. Toàn thân tôi không còn phải bằng da, thịt hay gân, sụn. Nó là một
cái gì rỗng mà nhẹ. Bảo là một con búp bê nhựa có lẽ đúng, bởi vì chân tôi như không còn bám được trên mặt đất.
Giá lúc đó có một vài ngọn gió to, tôi đến bay lên không mất rồi...".
Đã mấy lần Vũ Bằng toan bỏ, nhất là khi người cô ruột qua đời vì quá đau khổ và thất
vọng về ông. Nhưng ông không sao chừa
nổi, khi thì bởi sự kháng cự rất mạnh của cơ thể, khi lại bởi một ý nghĩ ngông cuồng,
tự ái của tuổi trẻ với một quan niệm khá phổ biến thời đó: làm trai không biết
ăn chơi là đồ quỷnh! Thế là cứ sau mỗi lần định chừa mà không chừa được, Vũ Bằng
lại hút dữ dằn hơn.
Nhưng rồi cuối cùng Vũ Bằng vẫn cai được. Ông cai được là
nhờ một trận ốm thập tử nhất sinh, đúng dịp tết, phải đưa vào bệnh viện. Trên
giường, căn bệnh kịch phát khiến ông
đau đớn, nhưng nó không hành hạ cơ thể ông bằng cơn thèm thuốc. Cơn thèm thuốc
làm ông đau lục phủ ngũ tạng, chừng như muốn xé xác ông ra từng mảnh. Có lúc
cơn thèm khiến Vũ Bằng không thể chịu nổi, toan buông xuôi cuộc đời mình
cho số phận đưa đẩy, ông vùng dậy đi mua thuốc, nhưng ông không thể cất mình
lên được, lại không có người sai bảo, ông đành nằm xuống. Cơn thèm qua đi, ông lấy bút viết ra giấy, như một
lời thề, treo lên đầu giường: "Cha ta sống lại mà bảo ta hút thuốc phiện ta
cũng không được hút". Ở cuối giường thì treo lời tự sám hối, tự xỉ
vả mình: "Thuốc phiện giết chết cả dân tộc mày, làm cho bao nhiêu người xung quanh mày sống ai oán, chết khổ sở,
mày có nhớ không?".
Đau đớn và
mang mặc cảm tội ác nhất, ấy là khi Vũ Bằng đã chừa hẳn. Một lần ông đến
tiệm hút để tự thử thách lòng can đảm của mình, thì ông chợt bắt gặp Liên Hường đang nằm nghiêng bên đèn say sưa hút.
Vũ Bằng mô tả đoạn này thật xót xa:
"...Đôi đứa
chúng tôi vẫn nằm bên khay đèn như hồi trước. Ngọn đèn dầu lạc vẫn soi bóng tờ
mờ vào đôi mái đầu xanh. Nhưng Liên Hường thực của tôi đã đi đâu mất rồi?
Nằm đối diện tôi bây giờ chỉ còn lại một Liên Hường gầy guộc, xanh xao, má trát phấn son tô không đủ che được một làn da
quá bủng. Chung quanh cặp mắt bồ câu, những đường nhăn đã bắt đầu và những
nét buồn. Gân chằng mạng nhện ở cổ. Tay nàng khô hanh và bé như xương gà. Toàn thân tiết ra một sự tàn phá làm
cho ta ghê rợn...".
Từ một thiếu nữ
trong trắng, xinh đẹp, cứ nhớ đến nàng là nhà văn họ Vũ lại rạo rực niềm yêu mà
giờ đây chỉ mới vài năm qua đi, nàng đã trở thành một "bộ hài cốt sống".
Sự tàn phá băng hoại của thuốc phiện thật đáng sợ biết bao!
Nhà văn Vũ Bằng, may mắn sao, đã đào thoát ra được, vĩnh
biệt hẳn với nàng tiên nâu, nhờ thế mà chúng ta mới còn có những tác phẩm
"Khảo luận về tiểu thuyết" (1955) "Miếng ngon Hà Nội"
(1957), "Bốn mươi năm nói
láo" (1969), "Món lạ miền Nam" (1970), "Cái đèn lồng"
(1971), "Nhà văn lắm chuyện" (1971), "Những cây cười tiền chiến"
(1971), "Nói có sách" (1971) và đặc biệt là tuyệt phẩm "Thương
nhớ mười hai" (1972)... để đọc
LÊ HOÀI NAM
Nguồn: VNCA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét