Nhà thơ Nguyễn Minh Khiêm
1. Sự xâm nhập
và tái sinh truyện kể dân gian không còn lạ gì trong thơ ca Việt Nam từ những
năm 80 của thế kỉ XX đến nay. Không ít tác giả sử dụng chất liệu dân gian làm
tư liệu sáng tác. Từ Vương Trọng, Hà Nhật, Đoàn Thị Lam Luyến, Trần Đăng Khoa,
Lãng Thanh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Văn Công Hùng, Võ Quảng,... cho đến
những tác giả trẻ hơn như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Quang Hưng, Lữ
Thị Mai,... Ở đó, với cảm quan, tư duy và tâm thế hiện đại, các nhà thơ thẳng
thắn bày tỏ đồng thuận hoặc đôi khi trái chiều trước những nhân vật, sự kiện,
chi tiết của truyện kể dân gian để bàn luận về tình yêu, thân phận, bi kịch,...
của con người. Ở tập thơ Cánh đồng nhiều hướng gió, Nguyễn Minh
Khiêm sử dụng nhiều chất liệu dân gian, mượn chất liệu dân gian gia tăng thi ảnh.
Khá nhiều ca dao, tục ngữ, thành ngữ được sử dụng, tuy nhiên, hầu hết mới dừng
lại ở sự vay mượn, sáng tạo chưa cao. Ấn tượng nhất vẫn là chất liệu từ truyện
cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Những chất liệu ấy đều được ông soi chiếu
trên cái nền của hiện thực. Với cảm quan mới, ông vừa nhận thức lại huyền thoại,
vừa mượn huyền thoại, so sánh, đối chiếu với thực tại, nhờ đó, ông đã lạ hóa thực
tại, tạo ra một thế giới khác, thực tại khác, neo vào người đọc ý thức phản tỉnh.
Do đó, Cánh đồng nhiều hướng gió có sự đan chéo, phối hợp giữa
nguồn mạch dân gian và âm hưởng đương đại. Tính hợp lưu này tạo nên cái riêng
khác cho Cánh đồng nhiều hướng gió.
Nhiều chi tiết,
nhiều nhân vật trong truyện dân gian được tác giả vay mượn: quả dưa Mai An
Tiêm, bọc trứng Âu Cơ, niêu cơm, tiếng đàn, cây cung, gốc đa Thạch Sanh, trái
tim ĐanKô, nỗi đau Prô-mê-tê, chàng Đăm San và nữ thần Mặt Trời, tiếng sao
Trương Chi, Thánh Gióng,... Trong đó, nhiều chất liệu dân gian được lặp đi lặp
lại. Nhân vật Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) lặp 5 lần; Sơn Tinh lặp 5 lần,
Thủy Tinh lặp 6 lần; chi tiết bọc trứng Âu Cơ lặp 5 lần; chi tiết về Thạch Sanh
lặp 5 lần,... Mỗi lần lặp đều đưa đến những cảm xúc riêng. Một số chi tiết
trong truyện Thạch Sanh, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mỵ Châu – Trọng Thủy, Tấm Cám,...
được nhà thơ cắt nghĩa lại. Những hành động như “Lý Thông lấp đá giết Thạch
Sanh”, “Sơn Tinh ném đá xuống đầu Thủy Tinh”, “Tấm xui Cám vào chum tắm để đẹp
xinh hơn”,... đều để lại những ám ảnh khó phai về sự trả thù trong cách ứng xử
nhân sinh. Theo Nguyễn Minh Khiêm, hành động của Lý Thông đã “hình thành vực thẳm
trong nhiều ánh mắt”. Hành động của Sơn Tinh “để lại vết sẹo dài trong ký ức hết
thế hệ này qua thế hệ khác”. Hành động của Tấm khiến “trang sách nào mở ra cũng
kinh hoàng vại mắm”... Ông không chỉ tái sử dụng một số chi tiết từ chất liệu
dân gian mà ông còn phát hiện, bổ sung thêm một số nét mới, hay nói cách khác,
ông viết tiếp, theo cách nhìn nhận, đánh giá của mình. Ông đánh giá Sơn Tinh,
Thủy Tinh trên tinh thần công bằng, lòng nhân ái:
Sơn Tinh và
Thủy Tinh nhận ra mình cùng sinh từ bọc trứng Âu Cơ
Sau mấy nghìn năm xung khắc bất đồng vì một người con
gái, nay tìm cách chung sống một mái nhà
Sơn Tinh nhận lại Hoàng Sa, Trường Sa, nhận lại những
đảo chìm đảo nổi
Thủy Tinh lên đầu suối, đầu sông mở Hồ Núi Cốc, mở Hồ
Hòa Bình. Mở Hồ Sơn La, nhận lại Hồ Ba Bể
Đem dấu chân cha dắt năm mươi người con xuống bể về thờ;
đem dấu chân mẹ dắt năm mươi người con lên núi về thờ
(Sau một đêm thức dậy)
Hoặc vừa đối thoại với cổ tích vừa đối thoại với thực tại,
tạo đất để người đọc tự suy nghiệm:
Ta trở về
cánh đồng nơi có bước chân lạ mẹ ta ướm vào sinh ra Thánh Gióng
Văng vẳng
câu nuôi khát vọng thì nuôi đồng xa, chớ nuôi đồng nhà làng bắt
Chiếc giỏ hạnh
phúc nhiều lần bị lừa đổ trộm
Nhưng mỗi lần
nhận con bống bụt cho ta vẫn sợ mang theo bao nhiêu tai họa
Ta không muốn
về làm hoàng hậu bằng cách dụ dỗ Cám trèo cau
Giọt máu của
cha ta liệm mấy trăm năm rồi mắt vẫn chừng chừng mở.
(Cánh đồng nhiều
hướng gió)
Việc cắt nghĩa
các chi tiết, hình ảnh dân gian, đưa đến diện mạo mới cho Cánh đồng nhiều
hướng gió, vừa đậm chất dân gian vừa mang hơi thở mới, cảm quan mới,
tư duy mới. Đây là hướng đi đáng quý khi thơ ca đang tràn lan, gây nhiễu loạn
trong quá trình tiếp nhận.
2. Nhiều hình ảnh
trong Cánh đồng nhiều hướng gió tạo được độc đáo, bất ngờ. Thiết
kế khoảng trống giữa các từ ngữ chưa phải là điểm mạnh của Nguyễn Minh Khiêm
nhưng việc kết hợp lệch chuẩn đã cấp nghĩa mới cho hình tượng thơ, đưa đến sắc
thái lạ. Câu thơ “Những đôi vai gánh nếp nhăn vượt khỏi đời mình mỏi mệt dựng
câu hát cũ làm lều tránh nắng” là một ví dụ. Ở đây, kết hợp lệch chuẩn
cùng với tương hỗ của thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, hình ảnh "những đôi
vai" dội vào lòng người âm hưởng buồn, ray rứt trước nỗi đau thân
phận. Hoặc hình ảnh ngọn gió trong trong tập thơ. Đây là một hình
tượng sinh động, vừa thực vừa hư. Ngọn gió được nhìn ở chiều kích mới, mang tính
đa nghĩa, nước đôi. Gió xuất hiện ở nhiều góc độ. Nguyễn Minh Khiêm không dùng
chày để giã gạo mà dùng để giã gió: Những chiếc gùi mang lam lũ nhọc nhằn
xệ xuống bởi tiếng chày giã gió. Gió gợi nỗi đau: Gió đắng đót
khúc đồng dao lệch nắng. Gió – khởi đầu của sự rạn nứt: Bóc mỗi sợi
gió thấy bao nhiêu đứt gãy. Gió của cường quyền: Cánh buồm
không căng lên được bởi những cơn gió bại liệt. Gió của tình
yêu: Bóc ra từng sợi gió đặt lên môi,... Như thế, gió của Nguyễn
Minh Khiêm tồn tại trong nó nhiều mặt, vừa gợi những gì trong trẻo, đẹp nhất, vừa
biểu hiện bi kịch thân phận, vừa biểu hiện ngăn cách, chia lìa,... Sự đa dạng
hình tượng gió đã phần nào mở ra sự đa dạng của cõi thế.
Viết về mẹ, về
cha, hình ảnh đôi bàn chân, bàn tay có sức gợi, sức ám ảnh cao. Nó là biểu tượng
vẻ đẹp cần mẫn, lam lũ trong lao động của người dân. Bàn tay mẹ được tác giả so
sánh ngầm với những vật dụng quen thuộc được dùng trong lao động:“Bàn tay
hình lưỡi cuốc. Bàn tay hình lưỡi xẻng. Bàn tay hình chiếc gàu tát nước. Bàn
tay hình chiếc cào năm răng, mười răng. Cuốc cào suốt sáng thâu đêm” (Sấm
xa). Khoác vào hình dáng ấy, đôi bàn tay đã lột tả hết những đớn
đau, vất vả, suốt một đời lo toan vì chồng, vì con của người phụ nữ. Cũng ở
bài Sấm xa, đoạn thơ khác, bàn tay của mẹ còn là biểu tượng của niềm
tin, sức sống, khát vọng dù ẩn chứa trong đó cả một trời buồn đau, cơ cực: “Đêm
Ba mươi tết mẹ ngửa bàn tay. Khát vọng xòe ra. Mơ ước xòe ra. Màu tóc xòe ra.
Tuổi xuân xòe ra. Da nhăn vỏ đỗ xòe ra”. Động từ “xòe ra” tạo được hiệu
ứng thẩm mỹ cao. Bàn tay xòe ra, tuổi xuân xoạc ra, nỗi cơ cực giãn ra, tách ra
từng thớ một khiến lòng người thêm se sắt. Đôi bàn chân của cha cũng được tác
giả phác họa khá đắt: Chạm đôi dép cũng nảy mình lên như gặp bàn chân
cha tóe máu trong giày; Bàn chân móng mất móng còn không thành ngòi bút viết tiểu
sử và hồi ký. Đôi bàn chân bị tổn thương, bị biến dạng, tự nó đã lột tả
những âm thầm vất vả hi sinh thầm lặng của người cha.
Hôn phối các từ
ngữ, cụm từ ngữ lạ trở thành một phương tiện để Nguyễn Minh Khiêm mở rộng khả
năng phản ánh chiều sâu của hiện thực, mở rộng biên độ của cái đẹp, quyến dụ
người đọc bước vào một thế giới của ảo mộng, huyền bí nhưng lại rất hiện thực.
3. Yếu tố thế
sự đậm đặc trong Cánh đồng nhiều hướng gió. Nguyễn Minh Khiêm gửi gắm
trong đó tình cảm về quê hương, đất nước, suy ngẫm về chiến tranh, về tình yêu,
về lẽ sống, về thế thái nhân tình,... với giọng điệu vừa trữ tình đằm thắm vừa
triết lý, vừa chao chát, ngậm ngùi vừa pha chút tưng tửng, bình thản.
Cảm hứng từ lịch
sử như truyền thuyết về cái chết của Trần Khát Chân, thái sư Trần Thủ Độ, hình ảnh
cô gái Pa Kô,...; các địa danh, những trận chiến lớn - dấu tích chiến tranh khốc
liệt - như: Thánh địa Mỹ Sơn, Thành cổ Quảng Trị, bãi cọc Bạch Đằng, hang Đầu Gỗ,
chiến dịch Làng Vây, chiến dịch Tà Cơn, chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh,... cũng
tạo điểm nhấn cho Cánh đồng nhiều hướng gió. Lấy cảm hứng từ cuộc
chiến 81 ngày đêm đầy bi tráng, thủ pháp ẩn dụ, điệp, liệt kê, tương phản, câu
cảm thán liên hoàn đã giúp nhà thơ xây nên một tượng đài Thạch Hãn đẫm màu đỏ.
Màu đỏ của chia li, đoạn tuyệt, tang thương, ray rứt không thể nào liền da. Hôm
nay, tiếng reo nối tiếp tiếng reo mà sao rưng rức, tái tê! Tiếng gọi không lời
đáp tan vào dòng sông máu dội vào ngực người ở lại những nốt trầm đau thương: Từ
thượng nguồn buốt tới hạ lưu. Tiếng reo nối vào nhau xé ngực. A! Thấy một lọn
tóc! A! Thấy một
mẩu xương! A! Chiếc lọ bi-ni-xi-lin chưa vỡ! Những tiếng reo nước mắt chảy ròng
ròng. Những tiếng reo mà đứt trăm khúc ruột. Những tiếng reo đến muôn sau còn
buốt// Từng mẩu xương, từng mẩu tóc vẫn được tìm lên. Những giọt nước mắt vẫn nối
nhau rơi xuống/ Mẹ gọi/ Vợ gọi/ Con gọi/ Người yêu gọi/ Đồng đội gọi/ Bạn gọi/
Dòng họ gọi/ Làng xóm gọi/ Dòng Thạch Hãn ngày nào cũng thế!” (Miên man Thạch Hãn).
Nếu cảm hứng từ
văn học dân gian đưa đến nhiều triết lý, suy nghiệm trên cái nền hư thực thì cảm
hứng lịch sử, chủ yếu được xây đắp bằng yếu tố thực nhưng vẫn đầy day dứt, chua
xót, ám ảnh người đọc.
Trong Cánh
đồng nhiều hướng gió, sự xuất hiện của các đồ dùng, vật dụng quen thuộc
như đèn cù, rơm rạ, tấm lưới, vỏ trấu, hạt lúa, củ sắn, củ khoai, lưỡi cuốc, lưỡi
cày, dao, mai, thuổng, chiếc bồ, chiếc đòn gánh, hình nộm, con trâu, con bò, xe
bò, chiếc dậm,... và các trang phục truyền thống như áo tứ thân, mớ ba mớ bảy, áo the, khăn xếp,… cho đến những lễ vật, hoạt động trong lễ hội truyền thống như bánh
chưng bánh dày, trầu cánh phượng, câu hát giao duyên, phường bội phường chèo, cồng
chiêng, đàn đá,... tạo không khí rất đồng quê, rất dân gian. Đối lập với những
hình ảnh mang đậm hồn quê là sự hiện hữu sóng đôi của lối sống thời @, tràn ngập
vật chất và quyền lực, nơi ngự trị của đồng tiền màu xanh màu đỏ, đồng đôla
xanh, đồng đôla trắng, com lê cà vạt, vũ trường, điệu nhảy Disco, lắc, hít, chất
bột trắng,... Nhất là, hàng loạt động từ biểu thị trạng thái tâm lí, mang sắc
thái lo âu, xa xót, gợi sự bất ổn, đổ vỡ (đứt gãy, rữa ra, bay hơi, trượt, rỉ,
xỉa, quật, xé, rụng, nẫu, sứt, nứt ra, nấc lên, tứa ra, quất xuống,...) càng
làm rõ sự quá trình xâm lấn của lối sống hiện đại với nếp sống truyền thống dân
tộc. Đến nỗi, nhà thơ băn khoăn, hoài nghi, chất vấn “có phải vì lời ru
đến muộn” nên trong “ngọn gió mùa xuân vẫn có nhiều đứt gãy”?
Gông vào mình
những đớn đau, nghiệt ngã của lũ lụt, của lối sống thời thị trường, làng trong
mắt của nhà thơ đã “phố hóa”: Rạ rơm không biết mình đang được định giá
bởi cái ngoắc tay, cái gật đầu ở một quán bi-a hay trong nhà tắm”. Lòng
tham của con người đẩy vào làng những thứ phẩm độc hại, người người hại nhau một
cách nhẫn tâm đến nỗi rơm rạ, hạt lúa, lá cây, ngọn gió… cũng bao phen khốn đốn: Băng
zôn biểu ngữ treo rực rỡ từ đồng cạn đến đồng sâu làm thuốc tăng lực rơm rạ vẫn
phải nhiều lần đưa lên bàn cấp cứu; Hình nộm giắt quanh mình rất
nhiều thuốc trừ sâu, mặt người quê vẫn xanh xao vì bao nhiêu thứ đỉa/ Hạt
lúa trượt chân xuống tiếng thở dài/ Lá rụng buồn như khuôn mặt vay nặng lãi/ Gió
cứ u u thổi (Gió cứ u u thổi). Không gian yên bình của làng quê, những
giá trị văn hóa cổ truyền hiện lên trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc, trong giấc
mộng của nhà thơ: Ta muốn ru chiếc đòn gánh không còn ghì xiết vai làng
bật máu/ Ru những hạt phù sa có nắm nhau ta không bao giờ bị đem đi cầm cố lúa
non/ Ru mùa hoa đến sớm trong giấc mơ không vay nặng lãi/ Ru ánh mắt làng được
ngủ thật ngon trên rãnh cày mà không phải giật mình bởi mống cụt cầu vồng (Cánh
đồng nhiều hướng gió). Tương ứng với không gian hư ảo là thời gian
của mộng tưởng. Thời gian đã bị tác giả đẩy lùi về quá khứ. Đó là màu thời gian
của cổ tích, huyền thoại: “Ta lạc về cái ngõ ngày xưa đôi rắn liu điu dìu
nhau qua giông bão/ Mang tiếng sáo chàng Trương thả lưới đón ánh
trăng vàng trúc xinh tát nước/ Những con tằm cùng ăn một lá cùng nằm
một nong đóng gàu sòng tát cạn biển đông/ Lông ngỗng Mỵ Châu chấp
chới bay ra từ lồng ngực/ Trao nón ba tầm cây đa gánh tội/ Mặc
áo tứ thân đêm rằm chịu lỗi” (Những mảnh vỡ @). Ngày xưa được gợi nhớ
bằng những thi ảnh vừa gần gũi vừa cổ tích như nhân thêm khát vọng trở về tuổi
thơ, trở về mái ấm của nhà thơ: “thèm củ khoai lang mật ủ tro dưới gầm giường”,
“muốn ru chiếc đòn gánh không còn ghì xiết vai làng bật máu”, muốn “giữ
chiếc dậm cho cha đánh thật nhiều cua nấu canh rau bợ”,... Đối lập
hoàn toàn giữa ngày xưa ấy với cuộc sống thời @ tạo ra những vết nứt sâu hoắm,
in vào từng ngõ ngách, từng khuôn mặt, từng bước chân. Những vết nứt ấy lặn sâu
vào trong từng hơi thở, lời nói, cái liếc mắt, nụ cười... dù có vá/ nối cũng chỉ
hoài công. Bởi, theo tác giả, đó là vết nứt di truyền từ quá khứ đến hiện tại.
Thành phố hôm
nay cũng thế! Nhà thơ đau lòng, nhức nhói khi ở thành phố, nghề bới rác, tìm kiếm
trong đồ phế thải một sự sống, trở thành thiên đường của những số phận bất hạnh.
Thành phố là thiên đường tung hoành của ngập ngụa ruồi muỗi, rắn rết, chuột bọ,...;
là thiên đường của những người “lôi thôi lếch thếch xiêu vẹo, kẻ không quần,
người không áo, thần kinh, tàn tật, con đẩy ra đường, cha mẹ bỏ rơi đen đúa,
run rẩy”. Những mảnh đời cơ cực trên cái nền đen đúa, tối tăm, mù mịt,
không có tương lai như một thước phim quay chậm, chậm từng tí một, dội vào người
đọc những ám ảnh khôn nguôi. Đối lập với không gian ấy là không gian của những
kẻ sống xa hoa, quyền quý, lướt qua những cảnh đời ấy bằng chiếc xe bóng
nhoáng, không đơn giản chỉ là té nước khi phóng qua mà ghê sợ hơn khi họ bịt mồm,
bịt mũi, kéo rèm che cửa kính để tránh cái mùi thối, mùi mưu sinh của biết bao
phận người. Nhà thơ nói mỉa thành phố ấy là thiên đường, nhưng đó là thiên đường
những gì khủng khiếp, ghê sợ nhất.
Nhà thơ xoay
hướng nào cũng thấy vết nứt. Cuộc thế cứ như khối vuông rubic bộn bề màu sắc.
Phải chăng thông qua bức tranh tương phản trên, Nguyễn Minh Khiêm muốn cảnh tỉnh,
thức tỉnh con người trước nguy cơ bất ổn, phi lý giữa những hệ giá trị cũ và mới?
Sử dụng chất
liệu dân gian, tư liệu từ lịch sử, đổi mới, lạ hóa hình ảnh thơ, không – thời
gian nghệ thuật, từ ngữ vừa hiện đại, đa dạng, đa nghĩa vừa dân dã, pha chút lạnh
lùng,... như một phương tiện để Nguyễn Minh Khiêm giải bày cảm quan của người
nghệ sĩ trước nguy cơ xói mòn, lai tạp của các giá trị truyền thống, trước những
ám ảnh, day dứt về quá khứ, trước những mảnh vỡ của cuộc sống. Qua
những thể nghiệm trong Cánh đồng nhiều hướng gió, người đọc vừa thấy
một Nguyễn Minh Khiêm băn khoăn, trăn trở vừa thấy một Nguyễn Minh Khiêm hết sức
thẳng thắn, trực diện khi chọc vào các vết nứt của cuộc sống. Cảm quan hiện đại
cùng với nhãn quan hiện thực nhạy bén, đầy tính nhân văn đã tạo sinh khí mới
cho Cánh đồng nhiều hướng gió. Cuối tập thơ, ông nhắc nhở “Suỵt!
Nói nhỏ”, thế nhưng, không có bức tường nào có thể ngăn nổi những ngọn gió quyền
lực trong Cánh đồng nhiều hướng gió. Một khi nhiều thứ tích tụ,
chúng như cái nhọt mưng mủ, sẽ bị vỡ ra, vén màn bí mật của thời cuộc: “Gió
đưa tay bịt miệng gió. Nắng đưa tay bịt miệng nắng. Làm ký hiệu cho nhau: Suỵt!
Nói nhỏ.// Nói nhỏ. Nói nhỏ. Nói nhỏ/ Nhỏ mãi. Nhỏ mãi/ Nhỏ thành mắt bão” (Suỵt!
Nói nhỏ)
Đồng Hới, 16.12.2014
HOÀNG THỤY ANH
________________________________
Nhà
thơ Nguyễn Minh Khiêm quê quán ở Yên Trung, Yên Định, Thanh Hoá. Hiện nay ông ở
tại Khu 2, thị trấn Quán Lào, Yên Định, Thanh Hoá.
Hội
viên Hội VHNT Thanh Hoá.
Hội
viên Hội nghiên cứu Khoa học lịch sử Việt Nam.
Hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2013.
Tác
phẩm đã xuất bản:
- Sư
tử làm chúa. Tập truyện. NXB Thanh Hoá. 1989
- Tiếng
gầm. Tập truyện. NXB Thanh Hoá. 1991
- Biển
khát. Tập thơ. NXB Thanh Hoá. 1994
- Dòng
sông không ngủ. Tập thơ. NXB Thanh niên. 1994
- Đi
tìm chiếc bút của dòng họ. Tiểu thuyết. NXB Thanh Hoá.1995
- Đằng
sau mặt trời. Tập thơ. NXB Thanh Hoá. 1996.
- Chim
yến làm tổ. Tập thơ. NXB Văn hoá Dân tộc. 1998
- Làng tôi không có tượng. Tập thơ. NXB
Thanh Hoá. 2000.
- Khoảng lặng trong cánh cổng. NXB Văn
học. 2004.
- Một góc phù sa. Tập thơ. NXB Hội nhà
văn. 2007
- Nhạc núi. Tập ký (in chung). NXB Văn
hoá Dân tộc. 2007
- Vết thương đá. Tập thơ. NXB Văn học.
2009
- Giải mã. Tập thơ. NXB Thanh Hoá. 2011
- Cánh đồng nhiều hướng gió. Tập thơ.
NXB Thanh Hóa. 2013
- Bầu trời màu hoa gạo. Trường ca. NXB
Văn học 2015
Giải thưởng văn học:
- Giải B của UBTQ LHCHVHNT Việt Nam năm 2008 với tập
thơ Một góc phù sa.
- Giải A của UBTQLHCHVHNT VN năm 2011 với tập
thơ Giải mã.
- Giải Ba cuộc thi Thơ lục bát của Tạp chí VNQĐ và
Tạp chí Sông Hương tổ chức, 2010-2011 với chùm thơ Tòong teng.
- Giải Ba cuộc thi Thơ lục bát “Nghìn năm thương nhớ”
do Tuần báo Văn Nghệ; Đài TNVN… tổ chức, 2910, bài thơ Chiếc điếu cày.
- Tặng thưởng cuộc thi thơ của Tuần báo Văn Nghệ
năm 2002-2003, chùm thơ Anh về với mẹ.
- Giải Nhất cuộc thi thơ của Tạp chí Xứ
Thanh (2007-2009 ), chùm thơ Gánh...
- Giải Nhất cuộc thi thơ Tạp chí Cửa Việt năm 2012,
chủ đề Chiến tranh vệ quốc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
chùm thơ Sau lá bồ đề.
- Giải B cuộc thi Thơ viết về 45 năm chiến thắng
Hàm Rồng, của Hội VHNT Thanh Hoá và Báo Thanh Hoá Tổ chức năm 2009, bài Cỏ
non.
- Giải Thơ hay nhất Tạp chí Sông Hương, 2010, bài
Sông Mã vẫn chảy bên chái nhà ta.
- Giải thưởng Tác phẩm xuất sắc của Tap chí Xứ
Thanh 2001, chùm thơ Hoa lau.
- Hai lần được Giải thưởng VHNT 5 năm của tỉnh
Thanh Hóa.
- Giải B Giải thưởng Lê Thánh Tông của Hội VHMT
Thanh Hoá, 2000, tập thơ Làng tôi không có tượng.
- Giải B Giải thưởng Lê Thánh Tông của Hội VHNT
Thanh Hoá, 2004, tập thơ Khoảng lặng trong cánh cổng.
- Giải A cuộc thi Truyện ký của Đài
TNVN- Báo Phụ nữ năm 1990 về đề tài: Bác Hồ với phụ nữ - Phụ nữ với Bác Hồ.
- Giải Nhì cuộc thi ký của Báo Văn Hoá - Đời sống,
2009.
Nguồn: NVTPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét