Nhà thơ Phan Hoàng
Xuyên suốt trường ca Bước gió truyền kỳ(1) của
Phan Hoàng là biểu tượng gió. Gió được coi như là
trục vận hành chính, là tâm điểm phát sáng nhiều thông điệp. Gió hiện
diện trong tác phẩm với vai trò nối kết năm phân khúc rõ rệt: Những ngọn
gió vô danh/ Gió tiếp sức ước mơ/ Bước gió truyền kỳ/ Gió dựng thành lũy biên
cương/ Những cơn vượt thoát sinh tồn vĩ đại. Ứng với mỗi bước gió là
một chủ đề lớn hàm chứa những chủ đề nhỏ hơn. Đặt trong tổng thể của tác phẩm,
tất cả cùng hòa âm - những âm thanh của tưởng tượng vang lên như một bè hợp xướng
đa thanh, lắng nghe sẽ thấy dàn hợp âm vang lên lúc êm ái, dịu dàng, lúc hào
hùng, dữ dội, lúc trầm lắng, suy tư, lúc xót xa, đau đớn, lúc tha thiết tự
hào… đó chính là những cung bậc cảm xúc của tác giả cũng như của bất cứ
người con đất Việt nào khi ngược dòng thời gian, sống cùng những sự kiện lịch sử
của dân tộc, dõi theo từng bước đi của sinh thể Mẹ - Tổ quốc từ
thuở ông cha “mang
gươm đi mở cõi” (Huỳnh
Văn Nghệ) cho đến hôm nay.
Trong văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới biểu tượng gió có
ý nghĩa khác nhau. Kinh Coran lấy các cơn gió làm sứ giả của Chúa Trời, tương
đương với các thiên thần. Thần của Chúa Trời bay lượn trên mặt nước nguyên thủy
được gọi là gió. Trong hệ biểu tượng Hindu, gió (vâyu) là khí vũ trụ và là lời
Thượng đế; gió là chúa tể của lĩnh vực tế vi, trung gian giữa Trời và Đất. Theo
các truyền thuyết Hindu về nguồn gốc vũ trụ trong Luật của Manu, gió được sinh
ra từ thần linh và gió sinh ra từ ánh sáng. Thần linh được kích thích bởi ước
muốn sáng tạo đã sinh ra không gian. Từ vận động của cái không trung này, đã
sinh ra gió. Gió chứa đựng tất cả các hương trong sạch, mãnh liệt, có đặc tính
của xúc giác. Trong các truyền thuyết của Kinh Thánh, những cơn gió là hơi thở
của Chúa Trời. Hơi thở của Chúa đã đưa trật tự vào hỗn mang nguyên thủy, hơi thở
đó đã đem lại sinh khí cho người đầu tiên. “Những cơn gió cũng là những công cụ của quyền lực thần thánh; chúng
truyền sinh khí, trừng phạt, giáo huấn, chúng là những dấu hiệu và cũng như các
thiên thần, chúng mang những thông điệp. Chúng là một dạng biểu hiện của thần
linh, muốn truyền đạt những cảm xúc của mình”(2).
Dựa trên nền tảng quan niệm của văn hóa nhân loại về biểu
tượng gió, với chủ đích mượn gió để gửi gắm thông
điệp nghệ thuật, trong Bước gió truyền kỳ Phan Hoàng đã xây dựng
biểu tượng gió theo cách riêng của trái tim nghệ sĩ đầy mẫn cảm
với một trí óc tưởng tượng bay bổng, phong phú. Gió trở thành
nơi phát lộ những bí ẩn của vô thức, của hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa
biết và cái vô tận. Gió gợi cho người đọc suy ngẫm về cuộc đời
của mỗi người Việt Nam qua tầng tầng lớp lớp thế hệ. Và thân phận mỗi cá thể vô
danh ấy gắn liền với mỗi bước đi nhọc nhằn của mảnh đất quê hương hình chữ S -
nơi mỗi chúng ta chôn nhau cắt rốn, cất tiếng khóc chào đời. Chạm đến tình cảm
thiêng liêng ấy nên gió trong tác phẩm của Phan Hoàng đã lay động
tâm thức người đọc ở vùng thăm thẳm nhất. Thổi qua nhiều miền tối sáng suốt chiều
dài lịch sử dân tộc, nhưng không ồn ào mà rất khiêm nhường, điềm tĩnh, những Bước
gió truyền kỳ đúng như tên gọi của nó đưa người đọc vào một hành trình
kỳ lạ, vừa thực vừa mơ để khám phá những vẻ đẹp của văn hóa, khí phách
và ý chí của dân tộc với nhiều cung bậc cảm xúc thẩm mỹ khác nhau.
Trong cảm thức của tác giả, gió là một biểu tượng
luôn luôn động, luôn luôn biến hình hài, đổi trạng thái và mỗi bước gió là một
sự tiến triển của đất trời, con người và vạn vật sinh linh…
Mở đầu trường ca gió là tâm điểm hội
tụ sức mạnh hồn thiêng dân tộc. Những ngọn gió vô danh gọi những linh hồn
vô danh quần tụ, họ là những chàng trai và những cô gái mang trong mình “Ước mơ căng tràn ngực gió thanh
xuân”… Họ đã sống từ bao đời trước: “Xác hóa mây bay hồn về đất mẹ/… Người từ
ngàn năm người quên tên tuổi...” Nhưng chính những con người giản dị
và bình tâm ấy là những con người đã làm nên đất nước (Mặt
đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm).
Gió được thổi hồn và hiện diện
như một sinh thể sống, gió là người và người là gió, gió quấn quýt, chia sẻ
vui buồn cùng con người, gió mở đường bay, gió đồng hành cùng người
từ những bước chập chững đầu đời, từ tuổi thơ hồn nhiên khát vọng truy tìm,
khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Với nhiều thủ pháp tu từ được sử dụng linh
hoạt như dùng xen kẽ liên tục câu dài/ ngắn, câu khẳng định/phủ định, câu kể,
câu cảm thán, câu hỏi…, âm hưởng chậm rãi, trầm lắng của khúc ca đưa mỗi chúng
ta trở về với tuổi thơ của mỗi người và tuổi thơ của dân
tộc. Đó là thời khởi sinh trong trẻo hồn nhiên, đầy ắp kỷ niệm ngây thơ êm
đềm nhưng cũng đã biết “khóc người lớn cười/ cười người lớn khóc”. Từ thuở mới khai sinh lập địa,
thuở hồng hoang mới biết hát đồng dao, người Việt Nam đã biết phân biệt phải/
trái, đúng/ sai, nuôi khát vọng, mơ ước, biết suy tư trăn trở tìm đường để hướng
đến những giá trị sống cao đẹp: “bay đường nào con người bớt khổ đau?/ bay đường nào con người bớt
nghèo đói?/ bay đường nào con người bớt phản trắc?/ bay đường nào con người tin
được nhau? ”.
Có thể nói bốn tiểu khúc trong phần Gió tiếp sức
ước mơ: Gió mở đường bay/ Đồng giao nghịch gió/ Cuộc trò chuyện giữa gió và
núi/ Gió tiếp sức ước mơ là những khúc đoạn vừa bay bổng, lãng mạn vừa
giàu chất triết luận. Đáng chú ý là Cuộc trò chuyện giữa gió và núi được
hình dung trong giấc mơ của người kể chuyện: “Nhiều đêm trong mơ ngược dòng ấu
thơ đuổi bắt sao trời, ta trộm nghe núi mở lòng với gió”.
Các nhà phân tâm học cho rằng về ý nghĩa giấc mơ là sự thỏa mãn một ước vọng.
Theo S. Freud, ước vọng là yếu tố chính tạo nên giấc mơ, ước vọng bị dồn nén được
thỏa mãn một cách tượng trưng và “trá hình” trong giấc mơ. Mọi giấc mơ là sự thực
hiện tưởng tượng hay biểu tượng của ước muốn. Giấc mơ “nghe núi mở lòng với
gió” của Phan Hoàng là một giấc mơ đẹp, lạ. Giấc mơ mang theo hình hài địa
lý của Tổ quốc, có “Biển Đông, có đồng bằng, có con đường xuyên
sơn ngoằn ngoèo”… giấc mơ tái hiện lịch sử bi hùng “một thời đội sấm đội
chớp mở đường” của cha ông… Phải chăng thông qua giấc mơ về Cuộc
trò chuyện giữa gió và núi tác giả trường ca Bước gió truyền kỳ muốn
góp thêm tiếng nói khẳng định một giá trị thuộc về truyền thống văn hóa của
những con người được nuôi dưỡng từ cái nôi của nền văn minh lúa nước trên dải đất
hình chữ S: dẫu trải qua bao dâu bể thăng trầm và biến thiên của lịch sử, người
Việt Nam luôn sống thuần phác, nhân hậu, bao dung, phóng khoáng, luôn
mong muốn “bắc yêu thương những nhịp cầu đồng dao!…” và “lấy cây rừng
làm bút/ lấy đá núi làm nghiên, lấy nước biển làm mực, đề thơ lên thạch trụ cao
vút chín tầng xanh…”. Đó là giấc mơ thấm đẫm khát vọng hòa bình và tự do,
tinh thần ấy là sợi dây bền chặt “nối ngàn xưa cho đến mai sau”.
Khúc thứ hai cùng tên tác phẩm: Bước gió truyền
kỳ - đây là khúc trọng yếu của thiên trường ca. Với những thức nhận
sâu sắc về văn hóa, lịch sử dân tộc, tác giả đã tái hiện bức tranh hoành tráng
về quá trình bảo vệ và khẩn hoang mở rộng bờ cõi của cha ông qua bốn tiểu
khúc: Bước gió truyền kỳ/ Gió khẩn hoang/ Gió xuôi chín khúc sông rồng/
Tây Nam mùa gió chướng. Âm hưởng hào sảng, tha thiết tự hào bao trùm khúc
ca. Câu thơ ngắn, dài, biến ảo linh hoạt, gợi hình ảnh; nhịp điệu nhanh,
dồn, mạnh mẽ và hối thúc. Biện pháp điệp từ, ngữ được sử dụng một cách triệt để
và đắc địa. Quá khứ lịch sử dân tộc với những bước chân huyền thoại thuở hồng
hoang trở về rõ mồn một sau từng câu chữ…
Như sự đặt để
của số phận, dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc phải đối mặt với nhiều
cuộc chiến tranh nhất để mở cõi và giữ nước. Trong kết tinh của đất và nước có
rất nhiều máu, mồ hôi và nước mắt: “máu/ máu/ máu/ mở cõi/ máu/
máu/ máu/ giữ nước… lớp lớp người/ tay cuốc tay cày/ lớp lớp người/
tay chèo tay lưới/ chém cá tràng kình/ mắt xua mây xám biển Đông/ lưng bóng nắng/
mồ hôi lạnh/ ngực dằn cơn ho cơn sốt…/ chân ngăn từng dòng nước khách lũ/ vật
vã/ kiên trì/ tự lực/ khẩn hoang”… âm hưởng của lời ca nghe như có tiếng nấc,
như có tiếng khóc, xót xa nhưng không hề bi lụy… Hiện lên trước mắt người
đọc là trùng trùng lớp lớp những con người bé nhỏ, vô danh nhưng dũng cảm gánh
trên vai một sứ mệnh lớn lao mà lịch sử dân tộc giao phó. Cuộc thiên di về
phương Nam nhọc nhằn, gian khó nhưng những con người lao động chỉ có tay cuốc,
tay cày, tay chèo, tay lưới cùng với ý chí kiên cường, đức nhẫn nại, hy sinh của
người dân nước Việt. Họ đã làm nên truyền thống, làm nên lịch sử cho xứ sở này
- truyền thống ấy mãi mãi âm vang bước gió truyền kỳ, tạc khắc
trong hiên ngang dáng núi, bao dung tình sông…
Xét trong chỉnh
thể của tác phẩm, như bản nhạc vang ngân, khi tiểu khúc Bước gió truyền
kỳ và Gió khẩn hoang với âm hưởng hào hùng, bi tráng
“cuồn cuộn chuyển động sắc màu vũ trụ” tạm lắng xuống, thì tiểu
khúc Gió xuôi chín khúc sông rồng vang lên với âm hưởng chậm
rãi khoan thai, có những nốt lặng lắng sâu nhiều suy tư về cuộc sống “phía
sau nỗi đau trận mạc”.
Đất nước hòa
bình, con người lại trở về với những giấc mơ hoa đời thường mà do chiến tranh
ngăn trở nên đã không thể thực hiện. Hạnh phúc đáng nói nhất là “tình yêu lứa
đôi không còn bão lửa cắt chia”. Tâm điểm của bức tranh hòa bình là hình ảnh
quấn quýt hòa trộn nhau thắm thiết, nồng nàn của đôi lứa yêu nhau được Phan
Hoàng phác họa sinh động mang sắc màu “nhục thể lành mạnh” (F.Engels): “Thịt
da nhiệt đới/ hừng hực ngực lửa/ hừng hực đùi hương/ bềnh bồng suối tóc/ bồng
bềnh môi trầm/ bềnh bồng mông núi/ bồng bềnh lạch hoa/ bồng em lốc xoáy/… em làm vợ ta làm chồng/ yêu nhau
thì cứ bềnh bồng bập bênh”. Ở đây khát vọng hướng đến những giá trị
nhân bản, nhân văn nhất của con người được thành thực trải lòng. Kiến tạo văn bản
theo một sơ đồ chủ ý trộn lẫn giữa truyền thống và hiện đại nên có lẽ vì vậy
trường ca Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng đã không bị sa vào
khuôn mẫu xơ cứng, đơn điệu của kiểu viết trường ca theo “cảm hứng sử thi” đầy
sắc màu “lý tưởng” tạo khoảng cách quá xa vời giữa con người trong tác phẩm và
con người của cuộc sống đời thường.
Thế giới nghệ
thuật vốn bao giờ cũng là thế giới trung gian giữa thực tế và mơ mộng. Nhiều
khi thế giới thực không thỏa mãn được ước vọng của người đời, thế giới mơ tưởng
có thể thực hiện được những ước vọng đó. Và ở khúc đoạn này, Phan Hoàng đã
thành công khi mơ một “giấc mơ sinh trưởng” lãng mạn nhưng cũng rất chân thực với cách diễn
đạt tưởng chừng tưng tửng, dí dỏm, nhưng ám gợi sâu sắc tâm thức người tiếp nhận.
Phần thứ ba
mang tên Gió dựng thành lũy biên cương gồm ba tiểu khúc: Linh
hồn gió/ Gió cõng hương qua núi đồi/ Gió dựng thành lũy biên cương.
Chiến tranh dẫu
đã đi qua, nhưng trong mỗi ngày của cuộc sống hòa bình những ám ảnh, đau thương
mất mát vẫn nhức nhối khôn nguôi, “cái ác mang mặt nạ hữu nghị viển vông”
vẫn lởn vởn. Đêm đêm linh hồn của những chàng trai, cô gái “hồn phách tinh anh
mỉm cười bước ra chuyện trò cùng với gió (…) bao linh hồn trẻ
hóa gió hiên ngang/ canh giữ giấc ngủ bình yên đất mẹ”. Đến
đây, gió trở thành biểu tượng của sức mạnh tâm linh huyền
diệu, thần kỳ. Sức mạnh ấy được khởi nguồn từ tình yêu đất nước của lớp lớp
thế hệ đi trước, họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân vì bình yên của mảnh đất này,
vì “cuộc sống những đứa trẻ không còn mồ côi đói khát…/ mùa
trăng mật dâng hiến lứa đôi/ mùa sinh nở dâng tặng tiếng khóc những ngôi sao hy
vọng...”. Trên nền âm hưởng trầm lắng, man mác buồn, hoài niệm, tiếc thương
người đã khuất, nổi bật hình tượng Gió cõng hương qua núi đồi thấm
đẫm sắc màu kỳ ảo: “Dường như có bóng ai lướt nhanh trong màn sương đục/
bóng của hôm qua bóng của hôm nay hay bóng của mai sau? gió vẫn miệt mài cõng
hương qua núi đồi một thời trận mạc/ gió nói gì với những chiếc bóng lang thang
chưa yên nghỉ mộ phần?”. Trước thế giới tâm linh thiêng liêng, những dấu
hỏi như găm vào lòng người sống hôm nay bao ngẫm ngợi, suy tư, khắc khoải về
thân phận con người…
Với độ lùi thời
gian, điềm tĩnh nhìn lại những “bước gió” bi hùng của lịch sử dân tộc, tác giả
trường ca xác quyết một sự thật: “không dân tộc nào/ không đất nước nào/ hiếm
hoi thế hệ bình yên/ nối nhau quẫy đạp bóng đêm/ đứng lên” như dân tộc
Việt Nam; và “không dân tộc nào/ không đất nước nào/ oằn vai/ gánh/ mười bốn
cuộc chia ly không hẹn ngày về/ không dám bày tỏ nỗi niềm nhớ thương/ không biết
cha con đối đầu/ không ngờ anh em bắn nhau/ máu đỏ oán sông/ xương trắng hờn
than núi/ bao tinh hoa hóa thành cát bụi/ bao bà mẹ tim ngừng đập vẫn mở mắt đợi
con/ bao người vợ úp mặt chờ chồng lửa lòng đông cứng!”. Chiến tranh là máu
và nước mắt, là cái chết, là chia ly, tan tác, chia lìa. Người dân đất Việt đâu
có mong muốn chiến tranh, nhưng “cực chẳng đã” buộc phải đứng lên để “giành
lại từng dấu chân giao chỉ/ giành lại từng viên đá cuội in bóng chim lạc chim hồng/
giành lại từng hạt cát mang hình đảo chìm đảo nổi/ giành lại từng tia sáng cánh
cò cánh vạc/ giành lại từng tiếng khóc bình yên tao nôi” . Và dòng hào
khí kết tinh từ tinh hoa của lớp lớp người mãi trường tồn, vút bay cao “hóa
thân bước gió truyền kỳ, cùng những vì sao nhấp nháy nhấp nhổm nụ cười” để
làm nên Những cơn vượt thoát sinh tồn vĩ đại của dân tộc.
Nếu quan điểm
của tư duy lý luận hiện đại cho rằng chức năng cơ bản của biểu tượng là sự phát
hiện hiện sinh của con người cho chính mình thì ở Bước gió truyền kỳ biểu
tượng gió giúp người đọc nhận ra chính bản thân mình từ những
phát hiện về phẩm chất của dân tộc từ góc nhìn nhân văn nhất về
lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt. Xoay xung quanh biểu tượng này
chúng ta có thể suy ngẫm để khám phá nhiều ý nghĩa về thực tại cuộc sống: đó là
mối quan hệ ràng buộc và những ứng xử mang giá trị văn hóa sâu sắc giữa
cá nhân và cộng đồng, cộng đồng và cá nhân… Sử dụng biểu tượng gió như
một thủ pháp nghệ thuật để thể hiện những ẩn dụ cảm xúc từ trìu mến, yêu thương
thiết tha nhất đến giận dữ, uất nghẹn, sôi sục nhất, tác giả Phan Hoàng đã thành
công trong lối dẫn dụ người đọc đi vào thế giới cảm xúc cùng những suy tư về
văn hóa, lịch sử và vận mệnh của dân tộc một cách tự nhiên trên tinh thần “tự cảm
hóa”. Với cách xử lý nghệ thuật khéo léo, tinh tế, sáng tạo, trường ca Bước
gió truyền kỳ của Phan Hoàng đã vượt qua giới hạn của lối tư duy tụng
ca về những vấn đề đại tự sự một cách đơn giản, sáo rỗng, vô hồn, thiếu thuyết
phục mà bạn đọc vẫn còn bắt gặp đó đây trong sáng tác hôm nay. Và đó chính là một
trong những nguyên nhân sâu xa, cơ bản nhất khiến tác phẩm này hàm ẩn nhiều
thông điệp nghệ thuật, tiếp tục “vẫy gọi” bạn đọc đồng sáng tạo.
Thái Nguyên, tháng 3.2016
TS. CAO THỊ
HỒNG
Chú thích:
(1) Phan
Hoàng, Bước gió truyền kỳ, Nxb. Hội Nhà văn, 2016.
(2) Jean
Chevalier, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
Nxb. Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, 1997, tr.363.
Theo DIỄN
ĐÀN VĂN NGHỆ VIỆT NAM 6/2016
BÀI LIÊN QUAN:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét