Nhà văn Nhật Chiêu
Không như những nhà văn Nam Bộ khác, khi viết văn thường
ít dụng công chăm chút cho tính mỹ cảm của văn chương mà viết văn cốt để trình
bày tư tưởng, tình cảm chân mộc của mình vốn là bản sắc văn hóa của cư dân Nam
Bộ, Nhật Chiêu là người đi đến tận cùng cái đẹp. Cái đẹp trong văn chương và
cái đẹp trong cuộc đời. Những trang văn của anh bao giờ cũng là hiện thân của
cái đẹp. Một tình yêu đẹp, một phong cảnh đẹp, một nỗi cô độc đẹp, một niềm hạnh
phúc đẹp… Vì vậy, có thể nói anh là con người của chủ nghĩa duy mỹ và duy cảm.
Nhưng không phải là một thứ duy mỹ và duy cảm cực đoan và xa rời đời sống. Ngược
lại, đó là một chủ nghĩa duy cảm và duy mỹ luôn gắn với nhân sinh,
là cái đích mà con người hướng đến để tự thanh lọc mình trước những cái xấu xa,
thấp hèn đang đầy rẫy trong cuộc sống hôm nay. Chính vì vậy, đọc văn Nhật
Chiêu, nhà văn Hồ Anh Thái cho rằng: “Đọc truyện đời mà dấn dần trôi vào cõi
huyền ảo. Phảng phất men say. Độc giả nào chợt thấy chơi vơi chuếnh choáng có lẽ
cũng không lấy gì làm lạ... Nếu bạn thấy thế giới ấy chập chờn viễn vông, xin
lưu ý rằng có thể đây là một điều hàm ngụ. Nếu chỉ đơn giản là bạn thấy nó đẹp
thì tôi tin đó là cái đích mà tác giả Nhật Chiêu hướng đến.”(1)
Vâng! lời chia sẻ của nhà văn Hồ Anh Thái về văn chương
Nhật Chiêu quả không đại ngôn tí nào. Ta hãy cùng khám phá những diễn ngôn anh
biểu đạt để thấy vẻ đẹp ấy hiện ra lấp lánh như thế nào trong văn chương của Nhật
Chiêu. Đây là vẻ đẹp thân thể của một người đàn bà được anh cảm nhận bằng tất cả
cảm xúc của sự thăng hoa trong tình yêu mà không phải khi yêu, ai cũng có sự cảm
nhận tinh tế ấy. Đó là sự cảm nhận vừa trần tục lại vừa thánh thiện, thanh khiết.
Cái thanh khiết chỉ có ở những tình yêu đẹp, tâm hồn đẹp và của một sự tận hiến
cho cái đẹp. Anh Viết: “Nệm vẫn còn vết trũng và hơi ấm do thân
thể nàng để lại. Gối vẫn còn phảng phất mùi hương nguyệt quế của tóc nàng. Ta
nhẹ ướm mình vào vết trũng đó, hơi ấm đó, mùi hương đó, ướm mình vào sự vắng mặt
nồng nàn đó. Ta mơn trớn hình dáng của sự vắng mặt trong tiếc nuối. Giá nàng
còn nằm lại! Ta thích ân ái lần nữa trước khi sương tan, trước khi nắng lên và
trong tiếng hót của chim rừng.”(2)
Viết về tình yêu và sự ân ái say đắm, nồng nàn trong tình
yêu bằng những lời văn mượt mà, óng ả như tơ trời, mênh mông như sương khói,
lãng đãng như hoàng hôn và đam mê, quyến rũ khi đêm về... nếu không có thiên
năng và một tâm hồn đa cảm luôn hướng về cái đẹp vừa rất CON nhưng cũng rất NGƯỜI
ấy, không phải nhà văn nào cũng thể hiện được. Nhìn vào thực trạng đời sống văn
học khi vẫn còn những trang văn miêu tả cảnh làm tình nhầy nhụa nhằm đánh vào
thị hiếu thấp hèn của một bộ phận người đọc mà chúng ta không khó lắm để tìm thấy
trong đời sống văn học hôm nay, chúng ta mới thấy trân qúi những trang văn đẹp
và quyến rũ như thế của Nhật Chiêu.
Tình yêu trong văn chương của Nhật Chiêu là tình yêu đẹp,
ở đó luôn có sự kết hợp hài hòa giữa “Hoan lạc. Âm nhạc. Phiêu bạt...”(3) của
cả một đời người chứ không chỉ là những khoảnh khắc thoáng qua theo kiểu tình
một đêm của những kẻ hãnh tiến núp mình ở các công sở hoặc kẻ lắm tiền
nhiều của muốn tìm cảm giác lạ, đầy bản năng để thỏa mãn dục vọng thấp hèn của
mình mà ta thấy đầy rẫy trong đời sống của xã hội được mệnh danh là hiện đại
hôm nay.
Yếu tính của văn chương bao giờ cũng hướng đến cái đẹp. Đọc
văn Nhật Chiêu ta không chỉ thấy hiện hữu cái đẹp trong tình yêu của con người
mà còn thấy hiện lên vẻ đẹp của thiên nhiên, một thiên nhiên thấm đượm triết lý
phương Đông mà anh đã cảm nhận bằng tất cả sự uyên áo và tinh tế. Vì vậy, thiên
nhiên trong văn của Nhật Chiêu bao giờ cũng mang nặng yếu tố tâm linh, luôn gắn
với cảm thức nhân sinh mà ta ít bắt gặp nơi những trang văn của các nhà văn Nam
Bộ khác. Đó là một thiên nhiên đầy mặc khải, huyễn hoặc và thanh sạch của một “Cao
nguyên duỗi mình tắm mưa. Nhưng vườn cà phê mà nàng vừa rời xa hẳn đang náo nức
hân hoan trong cuộc tắm táp tinh khôi vì mưa xuân đã đến. Mưa xuân rơi trên cây
dương liễu, trên cây phượng tím bên ngoài của sổ. Mưa xuân rơi rơi trên giấc ngủ
của nàng.” (4)Thật là một hình ảnh huyền ảo và đẹp đến lạ lùng,
thể hiện trí tưởng tượng vô cùng phong phú. Và sự tưởng tượng ấy lại chắp cánh
cho sự liên tưởng của anh bay cao bay xa như những giấc mơ “Và nàng tự hỏi
dương liễu đi đâu vậy? Mà tại sao đi nhanh đến thế với những lồng đèn đỏ đong
đưa? Cứ thế, đong đưa như những lồng đèn đỏ trong mưa. Dáng dấp muộn phiền u uất,
cây dương liễu cứ đi... Rồi dương liễu mờ khuất sau dốc đồi xanh ngắt thông,
sau vài khối đá tảng, những hình khối đá đứng bơ vơ không biết làm gì, đứng đấy
một cách trừu tượng mơ hồ” (5). Còn đây là một cảnh đẹp của
thiên nhiên gắn với những hoài niệm của con người mà khi đọc lên lòng ta không
khỏi thảng thốt “Qua khỏi cơn mưa nhẹ, với muôn vàn sợi tơ mưa mỏng giăng
trong nắng, với mặt trời chín ửng như một quả hồng đang lơ lững bên kia đồi, ta
bước vào xứ sở của những ngọn đồi. (...) Không ta không
chọn một ngọn đồi mà ta đang buông mình vào dòng hoài niệm, vào lần đầu tiên ta
đặt chân vào xứ sở của những ngọn đồi, xứ sở của những cầu vồng xanh.” (6) Hoặc
“Ta đang đi. Nhưng có phải ta bước đi đâu? Đó là bước chân của nắng tắt.
Đang tự mình hóa đêm. Đó là bước chân của cỏ. Nhẹ đi trong u huyền”.(7)
Và cái đẹp trong thiên nhiên của văn Nhật Chiêu, còn là
cái đẹp luôn ẩn chứa những triết lý nhân sinh mà anh cảm nhận thật tinh tế “Trong
một giọt sương, nàng cảm thấy cũng có ký ức của bầu trời xanh”.(8) Và
đó cũng là cái đẹp của nỗi cô đơn vốn là căn tính của hửu thể mà con người
không thể nào vượt thoát khỏi sự cô đơn ấy cho dẫu đó là sự vượt thoát đầy
“lãng mạn” và “huyễn hoặc” của những người tự cho mình có trái tim sắt đá. Ta
hãy nghe anh chia sẻ: “Giá như một lần, tôi có thể đi vào giấc ngủ ấy, cái
thế giới trống rỗng không có gì ấy. Trong cái nhà tù hư vô ấy, chỉ có bóng tối.” (9).
Đây là nỗi cô đơn của một tâm thức hiện sinh mà nếu không có sự trải nghiệm nhà
văn khó có thể viết được những câu văn tự vấn đầy khắc khoải như thế!? Không chỉ
có con người cô đơn trong cõi hư vô mà cảnh vật cũng chìm trong nỗi cô đơn ấy “Những
cái tháp chỉ còn chứa đựng hư vô. Ngàn năm còn lại mấy bình hư vô” (10).
Văn đẹp như những bài thơ!
Văn chương Nhật Chiêu là một thứ văn chương hướng thiện,
có khả năng làm thanh sạch tâm hồn con người. Văn chương ấy không phải ai viết
cũng được, nếu người cầm bút không có thiên lương và không có tình yêu đối với
cái đẹp một cách thanh sạch. Song văn chương Nhật Chiêu không chỉ ẩn chứa cái đẹp
mà còn ẩn chứa trong đó những giá trị mang tính triết luận; một thứ triết luận
vừa trí tuệ lại vừa đẹp, vừa gần gụi lại vừa xa xôi, vừa hiện thực lại vừa huyền
ảo. Đó là một thứ văn chương ẩn chứa nhiều giá trị triết lý nhân sinh mà trong
đó có sự hôn phối diệu kỳ giữa triết học phương Đông và phương Tây. Điều mà ta
hiếm thấy trong văn chương của các nhà văn Nam Bộ như: Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc,
Lý Văn Sâm, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo... thậm chí cả những nhà
văn trẻ sau nầy như Nguyễn Ngọc Tư…
Chất triết lý ấy ẩn chứa rất nhiều trong tập truyện ngắn Mưa
mặt nạ và tập truyện tuyệt ngắn và truyện một câu Lời tiên tri
của giọt sương, thể loại sở trường của Nhật Chiêu. Như ở truyện Cuối
cùng và đầu tiên, người con gái cuối cùng còn sống sót sau cơn đại hồng thủy
trên một con thuyền với người đàn ông lạ, lại là người con gái đầu tiên của cái
xã hội loài người đó trong vài trăm năm sau. Xem ra ở đời, cuộc sống vốn vô thường
là thế!? Không có cái gì là đầu tiên và cũng không có gì là cuối cùng. Ai tin
vào cái đầu tiên và cuối cùng, có lẽ chỉ là những chú cừu lẩn thẩn trong sa mạc
hoang vắng. Vì vậy, những gì gọi là đầu tiên và cuối cùng trong cuộc đời, nhiều
khi chỉ là những vấn đề có tính ý niệm về mặt triết học như những gì diễn ra
trong câu chuyện cực ngắn nầy!? Còn ở truyện Tiểu thuyết trinh thám lại
là một ngụ ngôn triết học độc đáo và sâu sắc về việc tìm kiếm bản thể của con
người. Đó là một cuộc tìm kiếm vô vọng... Bởi, con người luôn là một vũ trụ đầy
bí ẩn mà chúng ta không thể nào hiểu hết được. Và các truyện Bức
Tranh, Tề vật luận, Thế giới ảo, Gương, Tên trộm, Chiếc nhẫn, Cá
du, Một cách lễ độ, Hang tối, Thú lạ, Quần áo không vua... cũng là những
câu chuyện chuyên chở trong nó những ý niệm triết học rất sâu sắc và thú vị.
Song tính triết luận trong văn chương của Nhật Chiêu không chỉ thể hiện trong
những câu chuyện mang ý vị triết học như đã dẫn ra ở trên mà đặc biệt còn được
thể hiện trong những diễn ngôn của anh trong tác phẩm. Đặc điểm này đã làm nên
một thứ hương vị và nhan sắc riêng của văn chương Nhật Chiêu, cái mà các nhà lý
luận văn học gọi là phong cách, là cá tính sáng tạo.
Đọc một số tác phẩm của anh như Mưa mặt nạ, Lời
tiên tri của giọt sương,Viết tên trên nước, Đi dưới mưa hồng...
ta luôn bắt gặp những diễn ngôn ẩn chứa tính chất triết lý sâu sắc làm ta thích
thú đến bất ngờ. Đó cũng là cái duyên riêng có của văn chương Nhật Chiêu so với
các nhà văn Nam Bộ khác. Và đây cũng là một yếu tố cho thấy anh là “đứa con
hoang” của văn chương Nam Bộ. Do ảnh hưởng của tính chất địa văn hóa, người Nam
bộ vốn sống thoải mái, nhìn thoải mái, nghĩ thoải mái, nói thoải mái, chứ ít
khi châu mày triết lý cao siêu như người Bắc Bộ. Vậy mà, đọc văn Nhật Chiêu, mặc
dầu, anh vẫn nói thoải mái, nghĩ thoải mái nhưng đó là sự thoải mái của một
trái tim rất nóng và cái đầu rất lạnh, nên văn anh luôn thể hiện một độ chín tư
duy và chiều sâu tâm hồn. Và điều đó tan chảy trong văn của anh một cách tự
nhiên, không kiểu cách hay làm dáng “triết gia” gì cả. Đây cũng là điều tôi rất
thích thú và bị quyến rũ khi lạc vào thế giới văn chương của Nhật Chiêu. Bạn
hãy đọc những diễn ngôn sau đây để thấy rõ hơn điều đó.
Trong Mê cung, khi nói về việc tìm con đường
thoát khỏi mê cung của chính mình, Nhật Chiêu đã để cho nhân vật
tự thú bằng một câu đầy chất triết luận: “Với em cũng thế. Làm thế nào em
thoát khỏi chính em, thoát khỏi mọi hệ lụy của mình” (11) Còn
trong truyện Ao, cũng có những câu đầy tính triết luận nói về cái đẹp
của lao động sáng tạo nghệ thuật: “Khi nhào trộn đất thó làm bình, thì anh
cũng nhào trộn cả hư không trong lòng bình, cả bài ca anh hát bằng giọng điệu của
người cô độc.” (12) Hay ở truyện Viết tên trên nước,
có những câu mà tính triết luận gợi ra cho ta nhiều ngẫm ngợi về kiếp nhân
sinh: “Tôi theo đuổi kẻ theo đuổi tôi. Nghe nói chính cái bóng của tôi đang
bị theo đuổi. Đó chính là cái dấu tích duy nhất của tôi.” (13)
Còn đây là những câu không chỉ có tính triết luận mà còn là những hình tượng
văn học mang tính triết lý về những điều làm ta đớn đau trước những cái thật
/giả, giả / thậtđang hiện hữu trên sân khấu cuộc đời như một thứ giá trị ảo
được che đậy bởi những chiếc mặt nạ có khă năng đánh lừa con người mà
Nhật Chiêu miêu tả: “Dân làng tranh nhau nhặt mặt nạ và biết đâu, mặt nạ
cũng tranh nhau nhặt con người, dưới cơn mưa ảo, dân làng tranh nhau nhặt cái ảo
như thể đang nhặt vàng, nhặt bạc, như thể đang nhặt lên những giấc mơ, những
khát vọng, những mảnh vụn của bóng tối trong đáy sâu tâm thức, hoặc đang nhặt những
cơn điên, những phiêu lưu vô định. Có vô số mặt nạ... có cả mặt nạ của mặt nạ,
mặt nạ của hư không, mặt nạ của chân lý, mặt nạ của giải thoát...” (14) Có
thể nói tính chất triết luận trong văn chương của Nhật Chiêu đã trở thành một cảm
hứng trong cá tính sáng tạo của Anh. Cá tính ấy là sự kết tinh của quá trình
nghiệm sinh và một kiến thức triết học Đông Tây mà anh đã tiếp nhận và thấu cảm
được trong hành trình sống của mình. Anh quan niệm:“Bản chất của văn chương
cũng giống như mộng tưởng vậy, đó là thế giới của “Cái có thể”, chứ không phải
là thế giới của cái đúng tuyệt đối hay cái sai tuyệt đối. Đọc văn chương là được
khám phá cái có thể ấy.” (15). Đây cũng là một quan niệm văn chương nhuốm
màu triết học. Đó là một loại văn chương mang chở tư tưởng nhân văn cao cả chứ
không phải là thứ văn chương tả tình, tả cảnh đơn thuần, dễ dãi trên các trang
sách đang bày bán tràn lan ở các “chợ văn chương”. Và nói như người xưa đó là
loại văn chương “đáng thờ”. Theo tôi, văn chương không có tư tưởng là loại văn
chương không có tương lai, là loại văn chương đoản mệnh. Bởi lẽ, nó không bao
giờ là sự chọn lựa của nhân loại. Văn chương của Nhật Chiêu là một loại văn
chương thấm đượm khá sâu sắc tư tưởng triết học trên nền tảng của các giá trị
nhân bản nên nó là văn chương của tương lai...
Một điều cũng dễ nhận thấy trong văn chương của Nhật
Chiêu luôn khác biệt với các nhà văn Nam Bộ khác, đó là, trong tác phẩm của anh
gần như rất ít sử dụng phương ngữ Nam Bộ, điều mà chúng ta rất thường gặp trong
văn chương của các nhà văn Nam Bộ khác kể cả những văn tài như Nguyễn Ngọc Tư.
Lý giải điều này thật không đơn giản và cần có một công trình nghiên cứu khác về
anh. Song theo chúng tôi, có lẽ do Nhật Chiêu sinh trưởng ở Sài Gòn, nơi giao
lưu của nhiều nền văn hóa cộng với ảnh hưởng của lối sống đô thị phải giao tiếp
hàng ngày với nhiều người ở các miền khác nhau nên anh luôn có ý thức dùng ngôn
ngữ phổ thông. Phải chăng, vì thế, ngôn ngữ văn chương của anh gần như không có
phương ngữ Nam Bộ.
Một điều cũng cần nói đến trong văn chương của Nhật Chiêu
đã góp phần tạo nên một Nhật Chiêu Nam Bộ trong đời sống mà lại không Nam Bộ
trong văn chương đó là tính hiện đại trong tác phẩm của Anh. Hầu hết các truyện
ngắn của anh rất ngắn, kết cấu rất lạ theo kiểu kết cấu của truyện ngắn phương
Tây chứ không theo lối kết cấu truyền thống. Mỗi truyện ngắn của anh luôn dồn
nén về cảm xúc và tư tưởng như một bài thơ Hai ku của Nhật Bản, một thể loại
thơ mà anh rất am hiểu. Có thể nói văn chương của Nhật Chiêu là sự hóa thân diệu
kỳ giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa truyền thống và hiện đại. Đây
cũng là điều khác biệt của anh so với các nhà văn Nam Bộ khác. Và điều này càng
xác tín vấn đề mà người viết đặt ra: Nhật Chiêu là “đứa con hoang” của văn
chương Nam Bộ. Sự khác lạ của văn chương Nhật Chiêu đã góp phần tạo nên sự
phong phú, đa dạng cho văn chương Nam Bộ, làm cho nó trở nên đa thanh, đa giọng
điệu, đa sắc màu, tạo thêm sự hấp dẫn nơi người đọc. Vì vậy, dù là “đứa con
hoang” của văn chương Nam Bộ nhưng Nhật Chiêu không phải là một nghịch
tử mà là một quí tử. Văn chương Nhật Chiêu đã góp một tiếng
nói riêng làm rạng rỡ cho nền văn chương Nam Bộ. Đặc biệt, Văn chương Nhật
Chiêu đã thức nhận cho người đọc một cách nhìn mới, cách nghĩ mới về văn chương
Nam Bộ. Đó không chỉ là thứ văn chương vui chơi, dễ dãi, ít dụng công trong nghệ
thuật viết văn như người ta vốn nghĩ mà còn có một thứ văn chương buộc người ta
phải ngẫm ngợi về những lẽ được mất của nỗi đau phận người. Bởi nói như Alfred
de Muset: “Không gì làm cho con người trở nên lớn lao hơn là một nỗi đau thương
lớn”. Đây phải chăng là thông điệp trong văn chương của Anh và cũng là một đóng
góp quan trọng của Nhật Chiêu vào nền văn chương Nam Bộ nói riêng và văn chương
dân tộc nói chung...
TRẦN HOÀI ANH
Nguồn: NVTPHCM
Chú thích:
(1) Nhật Chiêu, Viết tên trên nước,
Nxb. Thanh niên 2010, lời giới thiệu của Hồ Anh Thái ở bìa 4,
(2) (3) (4) (5) ( 6) (
7) ( 8) (9) (10) (11) (12) (13), Nhật
Chiêu, Viết tên trên nước, Nxb. Thanh niên 2010, tr.6, tr. 7,
tr.22, tr. 22, tr.46, tr. 47, tr.37, tr.37, tr. 26, tr.9, tr. 30, tr.18
(14) Nhật Chiêu, Mưa mặt nạ, Nxb. Văn nghệ,
2008, tr. 6
(15) Nhật Chiêu, Đi dưới mưa hồng, Nxb.
Văn nghệ, 2007, tr.8
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét