Nhà văn Nguyễn Quang Sáng
Cách đây gần 1/4 thế kỷ, đối với những gã sinh viên mới tập
tễnh văn chương như tôi, được diện kiến và trò chuyện cùng một người nổi tiếng như nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một
điều diễm phúc. Nhưng chính ở lần gặp đầu tiên, dường như chúng tôi đã hơi hụt hẫng, bởi trông ông không hề có một
nét nào ra phong cách "nhà văn lớn", một Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM
thời kỳ đó. Dép lê, sơ mi đơn giản bỏ ngoài quần, người to ngang thấp đậm, nách
cắp chai rượu, giọng ồm ồm, hơi khàn. Ông sẵn sàng vỗ vai người này, cụng ly với
người khác, nói chuyện với ai ông cũng gọi mày, xưng tao khá bỗ bã, thân
tình, không một chút quan cách hay cố tỏ ra "tao nhã" đúng kiểu văn
nghệ sĩ. Được xem như một cây đại thụ
trong làng văn chương, nhưng bề ngoài, cho đến lúc tạ thế, ông vẫn đặc sệt cốt
cách một lão nông tri điền vùng sông nước Nam Bộ.
Có dịp, tôi đã
từng đưa nhận xét này ra nói với ông. Lão nhà văn cười khà khà: "Thì tao
là nông dân Nam Bộ thứ thiệt mà mầy. Tại tao viết đọc cũng được nên người ta gọi tao là nhà văn thôi. Tao là
nông dân, là bộ đội, viết về nông dân, về bộ đội mà thành nhà văn, chứ hổng phải
là nhà văn đi viết về nông dân, bộ đội. Chuyện đó, tụi bây có thích thì
cứ làm".
Đơn giản, hóm hỉnh, hơi cà rỡn, nhưng rõ ràng câu trả lời của ông hàm chứa
trong đó cả một quan niệm và tâm thế sáng tác rất đáng suy ngẫm. Và cũng rất…
Nguyễn Quang Sáng. Có lần, nhà thơ
Trương Nam Hương dắt một nhà văn trẻ đến nhờ nhà văn Nguyễn Quang Sáng đọc và
viết giúp lời giới thiệu một tập truyện ngắn sắp in. Không từ chối, nhưng câu
trả lời của lão nhà văn cũng khiến anh nhà văn trẻ chưng hửng: "Tao
già rồi, đọc cả tập mệt lắm. Mày cứ chọn cái truyện nào ưng ý nhất đưa đây tao. Văn chương là cái
duyên, đọc một cái mà thấy không có duyên là tao khỏi đọc nữa. Mày cũng đừng cố,
mất công!".
Câu trả lời đó, nếu không phát ra từ miệng của một nhà
văn nổi tiếng, tác giả của những tiểu thuyết "Đất lửa", truyện ngắn
"Chiếc lược ngà", "Quán rượu người câm", các kịch bản phim "Cánh đồng hoang",
"Mùa gió chướng", "Chị Nhung"… hẳn người vừa được ông
"úy lạo" sẽ tự ái lắm. Nhưng với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, chắc chắn
ông đang nói rất thật, rất chân tình. Trong một dịp trò chuyện tại Hội
nghị Những người viết văn trẻ TP.HCM
lần thứ III ở Bến Nhà Rồng năm 2011, lão nhà văn từng nhấn mạnh rằng,
văn chương là đi đến tận cùng cuộc sống, nhưng không phải bê nguyên xi cuộc sống, văn chương là sự sáng tạo nhưng
không phải là sự tô vẽ.
Văn chọn người,
người không thể chọn văn. Mọi sự tưởng tượng xa rời cuộc sống đều không làm nên
tác phẩm. Tuy nhiên, người hiểu và tái tạo được đời sống để thành văn chương thì
rất ít, phải tùy duyên. Cuộc sống ở từng nơi, từng miền hình thành nên phong cách, đặc trưng của văn chương từng
miền. Văn chương cũng như văn hóa, không có sự cao thấp, chỉ có sự khác biệt.
Không nắm bắt, không hiểu cặn kẽ được điều đó là "vô duyên", tốt nhất
đừng ôm mộng "làm văn".
Tham gia kháng chiến, trở thành bộ đội từ năm 14 tuổi, hầu
hết tác phẩm của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đều xoay quanh đề tài chiến tranh.
Và ông đã rất thành công. Các tác phẩm của ông, từ truyện ngắn, tiểu thuyết cho
đến kịch bản phim đều có chỗ đứng rất vững chắc cả trong văn học sử lẫn trong
lòng bạn đọc, từng giành nhiều giải thưởng vang dội trong và ngoài nước. Cũng chính ông là người từng "nhắc"
người ta nhớ đến chiến tranh ở một góc độ khác, góc độ nhân văn, một khoảng lặng.
Ở đó, chữ "duyên" mà ông đề cập trở nên minh triết.
Trong hội chứng
hậu chiến tranh Việt Nam, người Mỹ vẫn luôn tự hỏi không biết đối phương của họ
đã nghĩ gì và đánh giá như thế nào về cuộc chiến tàn khốc mà nước Mỹ - lần đầu tiên - phải đóng vai kẻ
chiến bại. Tìm câu trả lời, tháng 7.1989, Trung tâm Nghiên cứu về chiến
tranh và hậu quả về mặt xã hội của chiến tranh Việt Nam (The William Joiner
Center for the study of war and social consequences) đã mời một số nhà văn, cựu
chiến binh Việt Nam, trong đó có nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tham gia nhiều cuộc
hội thảo với nhiều nhà văn cựu chiến binh người Mỹ.
Khi tham quan thư viện của Trường Đại học Massachusetts,
nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhìn thấy trong vô số các kỷ vật chiến tranh được
trưng bày tại đây có một bức thư gồm 6 trang viết tay của "một người lính
Việt Cộng" - Đại úy Trần Ngọc Giao gửi cho vợ, chị Huỳnh Thị Cúc. Ảnh chụp
6 trang thư kèm một bản dịch sang tiếng Anh đã được phóng lớn, treo trang trọng
ngay giữa gian trưng bày.
Thư đề
"Ngày 6 tháng 4 năm 1967 (tức 27 tháng 2 Đinh Mùi)". Lá thư thời chiến
của một người lính không có dòng nào nói về cuộc chiến, chỉ thấm đẫm một
giấc mơ hòa bình và chiếc vai cày của một người nông dân khoác áo lính rất mực thương vợ, thương con, đặt hết niềm tin
vào ngày đoàn tụ. Trong thư, người lính Trần Ngọc Giao kể cho vợ hành trình
đưa con của họ, cậu bé Trần Văn Triệu, 14 tuổi, từ quê nhà, xã Phổ Thuận, huyện
Đức Phổ, Quảng Ngãi lên vùng chiến khu Liên khu V, vừa để bảo đảm sự an toàn, vừa
nhằm có điều kiện cho con được ăn học. Thương vợ vừa phải xa con, chắc sẽ rất
nhớ, người lính đã kể rất chi tiết cho vợ nghe từng bước một trong hành trình thoát ly của đứa
con.
Thư có đoạn: "Hôm ấy đi đến chiều độ 4 giờ thì đến
nơi nghỉ, tối đó anh đã lấy võng kaki xé ra một nửa may cho con một cái balô như của anh. Như vậy các thứ cần thiết đã
có đủ cho con rồi. Triệu nằm võng nilông, có bọc võng mà anh chị Ba của Triệu
(Đào) may cho hôm nọ, anh đưa tấm võng vải dù vàng của anh cho Triệu làm tấm đắp,
anh cho Triệu một đôi bít tất để tối ngủ cho ấm chân. Quần áo của Triệu như vậy
tạm đủ. Mấy tuần qua anh cho Triệu uống thuốc phòng sốt luôn nên sức khỏe của
con bình thường. Đậu phụng mang theo
đã rang làm muối cho Triệu nhưng con nó bảo là "con không thích ăn muối đậu". Dọc đường đi có
đánh được một bữa cá, Triệu ăn kêu ớn, anh có mua ít thịt heo làm lương khô bổ
sung cho con nó ăn, hôm ấy Triệu được dự một bữa liên hoan của bộ đội, ăn thịt
heo. Hiện đang còn lương khô
muối đậu, mắm khô (hôm Tết) và còn số ruốc khô để dành, còn một hộp sữa,
một gói kẹo.
Lần đầu tiên đi lên rừng, Triệu thấy cây suông cứ trầm trồ
nói cây này làm gọng bừa, cây kia làm cán cuốc. Thấy mây, Triệu bảo là đem về
được mà làm ở nhà thì tuyệt; thấy cây to bằng bắp vế suôn sẻ, Triệu bảo lấy làm
hầm thì tốt v.v... Triệu nói: "Khi nào về được, con bứt một số dây mây về
cho cậu Hai đánh nài và vác một số gọng bừa về cho cậu". Thật đúng là con
của nông dân lao động trong thời kỳ chiến tranh".
Và tất nhiên, người lính ấy cũng không quên dành trọn thương yêu cho người vợ đang xa chồng,
xa con, mong ngóng từng giờ để đến ngày đoàn tụ: "Ngày nào kháng chiến thắng
lợi, anh sẽ gánh vác một phần để Cúc đỡ vất vả. Ngày thắng lợi chắc không xa lắm...
Nhớ bà con, anh chị em và nhớ các cháu lắm. Anh mong ngày kết thúc chiến tranh
thắng lợi để được sống trong tình thương của gia đình và bà con làng xóm, chứ xa cách đã nhiều ngày lắm
rồi, gần 20 năm xa nhà rồi còn gì nữa. Ngày ấy rồi nhất định sẽ đến".
Đọc thư, xúc động mạnh, nhà văn Nguyễn Quang Sáng mường
tượng ngay ra trước mắt hình ảnh một người lính vừa ngã xuống với lá thư chưa kịp gửi đi, một người lính Mỹ nào đó đã lấy được bức thư
trong túi áo anh và đem về Mỹ.
Bám riết tâm trí ông là hình ảnh Cúc, người vợ góa và Triệu, đứa con côi của chiến sĩ Trần
Ngọc Giao. Họ đã không thể đọc được bức thư cuối cùng chưa gửi, không thể nhìn lại được nét chữ
thân yêu của người đã khuất.
Chạm mặt với bức thư, với Nguyễn
Quang Sáng, cuộc chiến dường như vẫn còn tiếp diễn. Cảm thấy món nợ với
người đã khuất vẫn đè nặng
trong tâm khảm, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã đặt vấn đề với thư viện Trường Đại
học Massachusetts, đề nghị xin lại bức thư để đưa về nước, mong đưa nó về tận
tay người đáng được nhận. Nhưng bức thư này đã trở thành "tài sản của nước Mỹ" nên ông bị từ chối!
Xót xa với ý
nghĩ hương hồn của một người đồng đội
vẫn còn lưu lạc, lẩn quất bên
bờ kia của đại dương, ngày 11.10.1989, nhà văn đã viết một bài báo có
cái tít như một ý thơ là "Xin đưa hồn anh về Tổ quốc"
kèm theo toàn bộ bức thư và cho đăng trên Báo Công an TP.HCM. Thật bất ngờ, người
ngã xuống trước họng súng
lính Mỹ là một chiến sĩ quân bưu, còn tác giả bức thư, đại tá hồi hưu Trần Ngọc Giao thì vẫn
còn sống.
Tình cờ khi đang nằm điều trị bệnh tại Bệnh viện C Đà Nẵng,
ông Giao đã được đọc lại chính bức thư của mình trên mặt báo. Một cuộc trùng
phùng cảm động đã diễn ra. Chính cậu bé Trần Hoàng Triệu năm nào, sau này đã trở
thành Trung tá, Trưởng phòng
PA25, Công an tỉnh Quảng Ngãi, đã đưa người cha cựu chiến binh của mình vào tận
TP.HCM thăm và cảm ơn nhà văn Nguyễn
Quang Sáng. Câu chuyện về họ tiếp tục trở thành đề tài cho nhiều bài báo, bài
thơ, thậm chí được quay thành cả một bộ phim vào thời gian sau đó.
Nếu không được
nhà văn Nguyễn Quang Sáng phát hiện ra, có thể bức thư vẫn chỉ là một kỷ vật
chiến tranh bị lãng quên. Nếu không có nỗi day dứt người lính trong ông, bức thư đã không quay lại
được tay người gửi. Và những trang viết, thước phim về câu chuyện ấy đã không có dịp hình thành. Sống hết mình
và viết hết mình, viết như từng sống,
nhà văn Nguyễn Quang Sáng không chỉ tạo được những tác phẩm để đời, ông còn
là một "người khổng lồ" có
ảnh hưởng lớn trong việc truyền cảm hứng sáng tạo tới nhiều người khác. Tất cả
chỉ bắt đầu từ sự mộc mạc, giản dị và chân thành như chính con người của nhà
văn Nam Bộ.
NGUYỄN HỒNG LAM
Theo VNCA
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét