Nhà thơ Đinh Hùng
1. Những biểu tượng đẹp:
Đinh Hùng viết
rất nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp con người, vẻ đẹp thiên nhiên. Đó không chỉ là
vẻ đẹp khiến cho thi sĩ cảm thấy rung động và muốn viết nên những bài thơ ca ngợi
như nhiều nhà thơ vẫn thường làm. Vẻ đẹp trong thơ Đinh Hùng có sức mạnh rất
ghê gớm. Nó khiến nhà thơ yêu cuồng nhiệt, muốn tan chảy vào đó, hòa vào
đó. Đó là vẻ đẹp dù không cần đến chất men cũng khiến người ngắm phải say và
điên đảo.
Trước hết, đó là biểu tượng người kỳ nữ:
Ta thường
có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên em-ôi
biển sắc rừng hương!
Em rực rỡ
như một ngàn hoa sớm
Em đến đây
như đến tự thiên đường
……
Buổi em về
xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi
thở lấy hồn trinh tiết
Ôi cám dỗ! Cả mình em băng tuyết
Rộn xuân tình lên bệ ngực thanh tân
……
Hỡi kỳ nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần- ôi sắc đẹp yêu ma
Lúc cuồng si nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết
Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết
Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn
Ta hái trong em lấy đóa hoa hồn
Đinh Hùng đã xây dựng một hình tượng kỳ nữ rất đẹp, rất tinh khiết, thanh cao. Đó
là một giai nhân tuyệt sắc tựa như ngàn hoa buổi sớm, như biển sắc rừng hương
hay như một thiên sứ đến từ thiên đàng. Nếu sắc đẹp ấy khiến nhà thơ muốn chiếm
lĩnh thì cũng chẳng có gì là lạ bởi vì các nhà thơ lãng mạn vẫn thường làm thế:
Bốn bên
hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa chấm
bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh
ấy chẳng sang xem.
(Mưa xuân –
Nguyễn Bính)
Thế nhưng Đinh
Hùng đã nâng hình tượng của kỳ
nữ lên một nấc cao hơn khiến cho cô trở thành biểu tượng của cái đẹp chứ không
đơn giản chỉ là hình ảnh của giai nhân. Sắc đẹp ấy vừa khiến nhà thơ muốn gần gũi, chiếm lĩnh vừa làm cho ông
phải đứng xa tôn thờ. Nó cứu rỗi tâm hồn ông để ông mãi sống với biểu tượng đẹp ấy: Ta sống mãi thở lấy hồn
trinh tiết. Nhưng nó cũng làm cho
ông phát điên và khát khao được chết dưới cái hôn của người đẹp để cả hai cùng
hòa lại làm một:
Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết
Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn
Ta hái trong em lấy đóa hoa hồn
Và ông còn khám phá ra một bản chất khác của cái đẹp là
cái ác. Đây là điều mà các nhà thơ lãng
mạn không hề nói tới bởi lâu nay người
ta vẫn quan niệm đẹp là trong sáng, là thánh thiện, là thanh cao. Thế nhưng
không phải Đinh Hùng không có lý vì xưa nay bao nhiêu vương triều sụp đổ cũng có sự tham gia của người con gái đẹp.
Câu chuyện về Đác Kỷ và Trụ Vương, Bao Tự và vua Kiệt, Phi Yến và Hán Vũ Đế,
nàng Tây Thi và vua Ngô Phù Sai, nàng Điêu Thuyền và Đổng Trác, nàng Dương Quý
Phi và Đường Minh Hoàng…vẫn còn đó như một minh chứng lịch sử về tai họa do cái
đẹp gây ra. Do đó, Đinh Hùng đã gọi kỳ nữ:
Hỡi kỳ nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần- ôi sắc đẹp yêu ma
Cho dù cái ác xuất hiện song hành với cái đẹp, một sắc đẹp
ma quái nhưng cái ác ấy vẫn không làm cho nhà thơ run sợ bởi cái đẹp đã thắng thế. Cho dù biết cô gái có lòng tàn ác
thì nhà thơ vẫn muốn gần gũi. Cho dù
biết rằng sắc đẹp ấy sẽ giết chết mình, nhà thơ vẫn tình nguyện được chết trong đôi môi của
người đẹp.
Quả thực, Đinh Hùng đã xây dựng được một biểu tượng người
phụ nữ rất đẹp. Nó vừa thực vừa mộng, vừa lung linh, vừa huyền ảo. Đối với ông,
biểu tượng ấy có sức mạnh vạn năng khiến ông có lúc tưởng như nó ở trên thiên
đường để ông tình nguyện sống mãi và tôn thờ. Tuy nhiên, ở một thời điểm khác,
ông lại thấy nó mang hình ảnh của yêu ma để rồi ông lại tình nguyện chết vì nó
mà không hề hối tiếc.
Không chỉ dừng lại ở người kỳ nữ, đối với Đinh Hùng, thần chết đôi khi cũng là một biểu tượng của
cái đẹp:
Nàng nằm mộng
suốt đêm hè dưới nguyệt,
Nụ cười buồn
lay động ánh trăng sao.
Xa nấm mồ,
chúng ta cuồng dại hết,
Để yêu tà về
khóc dưới non cao.
(Tìm
bóng tử thần)
Rõ ràng, khi nhà thơ gán cho Tử thần vẻ đẹp của người con gái, lập tức tử thần trở thành một
biểu tượng lung linh, huyền ảo. Thi sĩ không chỉ nhìn thấy vẻ đẹp hình
thể của người con gái khi còn
sống mà dưới ánh trăng mờ ảo, sắc đẹp
ấy trở nên diệu kỳ hơn bao giờ hết. Con người và thiên nhiên chan hòa
làm một, cùng vẽ nên một bức tranh tuyệt sắc. Không những thế, thiên nhiên còn
say đắm vẻ đẹp của Tử thần: Nụ cười buồn lay động ánh trăng sao. Và dĩ nhiên
Đinh Hùng cũng không thoát khỏi sự quyến rũ đó. Sắc đẹp khiến ông vượt qua nỗi
sợ hãi trong lòng để đi đến quyết định táo bạo: yêu Tử thần:
Ta cười suốt một trang thơ,
Gặp hồn em
đó còn ngờ yêu ma.
Giáng Tiên đâu? Thế kỷ gian tà,
Dạo chơi bình địa tưởng qua hai tần.
Đi đi, cho hết dương trần,
Ngày mai tìm bóng Tử thần mà yêu!
Có thể thấy, lâu nay nói đến Tử thần là người ta hay nghĩ đến biểu tượng của cái chết, của sự
hủy diệt. Do đó, có lẽ chỉ có Đinh Hùng mới tìm thấy ở người sự quyến rũ của cái đẹp, của tình yêu
và thậm chí là cả một tâm hồn thanh cao. Bởi vì, những điều nhà thơ chứng kiến trên thực tế, trong cõi
thực khiến nhà thơ cảm thấy quá chán
nản và thất vọng:
Cây Từ Bi
hiện đóa Ác Hoa đầu,
Hồn gặp Hồn,
ai biết thiện căn đâu?
Và giờ đây,
ông chỉ tin vào những điều ở thế giới bên kia, ở một nơi huyễn hoặc, mộng ảo.
Ông thành khẩn van xin nàng tin rằng, cho dù mình khác thế giới với nàng
nhưng vẫn giữ tấm lòng trinh
bạch:
Xin Thần Nữ tin lòng tôi trinh bạch,
Đốt kỳ thư còn mộng nét văn khôi.
Quả thật, Đinh Hùng đã xây dựng cho mình một biểu tượng tử thần mới, biểu tượng của tình
yêu, cái đẹp và sự thanh cao.
Nếu đọc hết những bài thơ của Đinh Hùng, người ta chắc chắn sẽ gán cho ông tên gọi thi sĩ của tình
yêu như họ đã từng gọi nhà thơ tình Xuân Diệu. Ông đã dựng nên rất
nhiều bức tượng đài về cái đẹp, về tình
yêu nhưng có lẽ biểu tượng đẹp nhất,
lung linh nhất theo cảm nhận của người viết là biểu tượng con đường tình
yêu trong bài: Đường vào tình sử, một biểu tượng được ghép lại từ rất nhiều biểu tượng khác nhau tạo nên một con đường
vừa đẹp, vừa buồn, vừa nhuốm màu sử thi, hoài cổ:
Phơi phới
thuyền ta vượt bến,
Từ đêm hồng
thuỷ ra đi.
Lòng
ta dao cắt
Chia đôi
Biên thuỳ,
Dòng máu kinh hoàng chợt tỉnh cơn mê.
Chúng ta đi
vào lá hoa Tình Sử,
Hơi
thở em hoà sương khói Đường thi.
Anh đọc cho
em những dòng cổ tự
Ai Cập và Cổ Ly Hy.
Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ
Bài thơ
xanh ánh mắt hẹn tình cờ,
Có những chữ Hoa yểu điệu,
Không phải đại danh từ.
Con đường tình yêu này rất dài, rất dài. Nó có hoa, có hương thơm, có âm thanh, có màu sắc. Tất cả
là hiện thân của tình yêu. Nhưng tình yêu không chỉ đơn giản vậy:
Chúng ta đến nghe nỗi sầu tinh tú
Những ngôi sao buồn suốt một chu k ỳ
Những đám tinh vân sắp sửa chia ly,
Và sao rụng biếc đôi tay cầu nguyện.
Ôi cặp mắt sáng trăng xưa hò hẹn,
Có nghìn năm quá khứ tiễn nhau đi.
Tình yêu có lúc vui và có lúc buồn. Những lúc buồn, tác
giả cảm thấy như vũ trụ này cũng
đang tan chảy, cũng thấm màu biệt ly. Và chặng đường đi tìm người yêu là chặng đường mà tác giả phải vượt
qua rất nhiều nơi trong trái đất, vượt qua rất nhiều vòng quay của vũ trụ
từ quá khứ đến tương lai. Có rất nhiều biểu tượng mà nhà thơ đã bắt gặp trên con đường ấy: lá hoa Tình
Sử, bài thơ xanh, chữ Hoa yểu điệu,
đôi hồn tình tự, cung đàn hoài vọng, khúc nhạc lang thang,…
Có thể thấy, mỗi người có thể có một cách đi tìm tình yêu của riêng mình. Thế nhưng, cách mà Đinh Hùng đã đi tìm
tình yêu quả là rất lạ. Một con đường đầy rẫy những sự hóa thân hư hư thực thực,
mờ mờ ảo ảo. Dù sao đi nữa, Đinh Hùng cũng đã xây dựng cho mình một con đường
đi đến trái tim đầy thú vị bằng chính sự giao cảm tâm hồn của người đang yêu.
2. Giao cảm với cõi hư vô:
Cũng như các
nhà thơ tượng trưng khác, Đinh Hùng cũng có những sự giao cảm bí mật với vũ trụ,
với thế giới tâm linh.
Khi miếu Đường
kia phá bỏ rồi
Ta đi về những
hướng sao rơi
Lạc loài
theo hướng chân cầm thú
Từng vệt
dương sa mọc khắp người
Rồi những đêm
sâu bỗng hiện về
Vượn lâm
tuyền, khóc rợn trăng khuya
Đâu đây u uất
hồn sơ cổ
Từng bóng
ma rừng theo bước đi
(Những hướng
sao rơi)
Như vậy, thời
gian và không gian trong thơ ông đã hòa lại làm một. Con người và vũ trụ, linh hồn không có sự phân
biệt. Chính những cảm xúc cuồn cuộn trong lòng đã làm cho sự giao cảm của
nhà thơ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ
hết:
Từng buổi
hoàng hôn xuống lạ kỳ
Ta nằm trên
cỏ lắng tai nghe
Thèm ăn một
chút hoa man dại
Rồi ngủ như
loài muôn thú kia
(Những hướng
sao rơi)
Nỗi khát khao
giao cảm, khát khao hòa mình với thế giới tâm linh, với vũ trụ làm cho
các câu thơ mang màu sắc sử thi, huyền
hoặc:
Ta lảo đảo
vùng đứng lên cười ngất
Ghì
chặt nàng cho chết giữa mê ly
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ
Bên thành quách ta ra tay tàn phá
Giữa hoan lạc của lâu đài, tình tạ
Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng
Một mặt trời đẫm máu phía sau lưng"
(Bài ca man rợ)
Rõ ràng, nhà thơ muốn phá bỏ hết những trói buộc xung quanh mình, muốn hét thật to
trong vũ trụ, muốn giải phóng cái tôi để làm những gì mình muốn, mặc sức yêu và
mặc sức điên cuồng. Ông muốn xóa bỏ khoảng cách giữa mình và vũ trụ.
Có lẽ Đinh Hùng đã yêu vũ trụ, yêu thế giới tự nhiên và
yêu cái đẹp trên cả mức mong muốn chiếm hữu. Ông viết về chúng như một thứ tôn giáo để tôn thờ, để khám phá bằng sự
hòa hợp tâm linh. Chỉ có như
thế mới mong thỏa mãn được những khát khao cháy bỏng trong tâm hồn tác
giả:
Trời cuối thu rồi em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu…"
(Gửi người dưới mộ)
Ở Đinh Hùng, cái chết chẳng có gì đáng sợ cả bởi ông có
thể đi qua đi lại trên ranh giới giữa sự sống và cái chết. Chẳng gì có thể ngăn
cản ông thực hiện mong muốn của mình:
Ta hát bài kinh, thoảng dã hương
Từng đêm
chiêu niệm bắt hồn nàng
Lời ra cửa
biển tìm sao rụng
Rỏ xuống mộ em giọt lệ thương…"
(Màu sương
linh giác)
Có thể nói rằng,
những câu thơ, những bài thơ thể hiện sự giao cảm một cách đầy bí ẩn của nhà
thơ với thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo đã chứng tỏ một điều rằng,
trên đời này, chẳng có gì có thể làm cho con người cảm thấy sợ hãi kể cả cái chết. Tâm hồn con người luôn luôn có một sức mạnh và một phép màu nhiệm
hết sức kỳ lạ trong vũ trụ. Nó có thể thỏa sức tung hoành làm những gì
nó muốn, nó có thể xóa nhòa ranh giới giữa thời gian và không gian, có thể xóa
nhòa giữa sự sống và cái chết. Điều đặc biệt nhất, nó có thể khám phá được cả
những nơi u tối nhất, kỳ ảo nhất của vũ trụ mà không cần nhờ đến những khám phá
khoa học.
3. Tắm mình trong những nốt nhạc thơm:
Từ nhạc luôn
luôn có một vị trí quan trọng trong thơ tượng trưng và Đinh Hùng đã
không quên điều đó. Những câu thơ của ông được sắp xếp chặt chẽ tạo thành hiệu ứng
của một bản tình ca ngọt ngào khiến người đọc cảm thấy như đang đắm mình trong một bản nhạc chứ không phải
là một bài thơ:
Giữa hư không
tìm lại vết chân Người,
Ôi xứ Đạo có
bao mùa tình tự?
Trong bản hát thiêng
Của bầy thanh nữ,
Có ai về ngự,
Giữa lòng thuyền quyên?
Trong mộng trần duyên
Của hồn thiên cổ,
Có ai vào ngủ
Một giấc cô miên?
Trời ơi!
Đây nguyệt vô biên
Trong lòng
người đẹp nằm quên dưới mồ!
Ta cười suốt một
trang thơ,
Gặp hồn em đó
còn ngờ yêu ma.
(Tìm bóng tử thần)
Bằng cách kết hợp giữa thơ lục bát dân tộc và thơ mới cùng cách gieo vần chân hiệu quả, Đinh Hùng đã
mang đến cho người đọc một bản nhạc thực sự êm ái, sâu lắng. Điều này đã góp phần
tăng hiệu quả nghệ thuật cho bài thơ,
đưa người đọc đắm mình vào chốn hư hư thực thực.
Trong một bài
thơ khác, nhà thơ học tập cách sáng tác thơ văn xuôi của Boudelaire để nói lên
nỗi lòng của mình:
Lũ chúng ta:
Mấy kẻ không nhà, tưởng dành bạc đức với nhân tình nên mê tràn
tâm sự, có buổi vò nhung xé lụa, chưa mời giăng một tiệc đà nhắc giọng Lưu Linh;
Từng giờ
thoát tục, đã quyết vô tâm cùng thể phách thì đốt trọn tinh anh, đòi
phen khóc nhạc, cười hoa, chẳng
luyến mộng mười năm cũng nổi tình Đỗ Mục.
(Thần
tụng)
Rõ ràng, cái tạo nên tính nhạc cho kiểu thơ văn xuôi ở đây là phép đối. Phép đối đã
làm cho hai câu thơ song hành tạo âm
hưởng. Thơ xuôi làm cho nhịp điệu hùng hồn, đanh thép, góp phần tăng thêm khí
phách cho lời thơ.
Ở trong bài Đường
vào tình sử, nhà thơ sử dụng
nhiều tiết tấu khác nhau khá hiệu quả, đặc biệt là tiết tấu vắt dòng,
câu gãy:
Phơi
phới thuyền ta vượt bến,
Từ đêm hồng
thuỷ ra đi.
Lòng
ta dao cắt
Chia đôi
Biên thuỳ,
Dòng máu kinh hoàng chợt tỉnh cơn mê.
Sự thay đổi nhịp
điệu đột ngột trong những câu thơ này tạo hiệu quả cho người nghe như chính họ
đang cùng nhà thơ ngồi trên con thuyền vượt sóng. Thỉnh thoảng, chính họ cũng
nghe thấy sóng lòng trong chính nhà thơ.
Cho dù chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của phương Tây thì âm nhạc dân tộc vẫn chảy trong hồn thơ Đinh Hùng khiến những câu thơ của ông trở
nên mượt mà như những bài dân ca, ngâm khúc. Ông đã sử dụng rất hiệu quả
thể thơ lục bát và song thất lục bát
của dân tộc. Trở lại bài thơ Thần tụng, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó:
Hồn lại đặt cơn mê cơn tỉnh,
Hồn lại bầy
đêm quạnh đêm vui.
Hồn xui rượu
nói lên lời,
Khói dâng
thành ý, nhạc cười
ra hoa.
Hồn bắt ai
tiêu ma ngày tháng,
Hồn giúp ai
quên lãng hình hài.
Hồn từ siêu thoát phàm thai,
Sầu trong tà dục, vui ngoài thiện tâm.
Hồn ở khắp sơn lâm, hồ hải,
Hồn sống
trùm hiện tại, tương lai.
Mênh mang một
tiếng cười dài,
Hồn lay bốn
vách Dạ Đài cho tan.
Có thể thấy,
Đinh Hùng chịu sự ảnh hưởng rất rõ từ các nhà thơ tượng trưng Pháp như Boudelaire, Rimbaud…Những
biểu tượng, những sự khát khao giao cảm hay những từ nhạc trong thơ ông đều
mang dáng dấp của thi pháp thơ tượng trưng Pháp. Bên cạnh đó, những vần thơ của
ông còn mang dáng dấp của chủ nghĩa siêu thực. Tuy nhiên, cái làm nên vẻ
đẹp của thơ Đinh Hùng là ở cách phối âm của những câu thơ gãy khúc với thể thơ dân tộc là lục bát và song thất lục bát.
Cho đến bây giờ,
với nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, Đinh Hùng vẫn là một bức mật mã
đầy bí ẩn. Muốn tìm được chiếc chìa khóa cho bức mật mã này thì phải đọc đi đọc
lại những tập thơ của ông, nhập tâm cùng ông, thả hồn theo những bài nhạc của
ông mới hy vọng có thể thẩm thấu từ từ từng nét từng chữ trong bức mật mã diệu
huyền.
ĐÀO LÊ NA
ĐH KHXH&NV TPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét