Nhà văn Solzhenitsyn
Nhà văn Nga
Aleksandr Solzhenitsyn qua đời tại Moskva vào đêm chủ nhật 3/8 rạng thứ hai
ngày 4/8/2008 tại nhà riêng. Theo lời của con trai nhà văn, nguyên nhân dẫn tới
cái chết là chứng suy tim nặng. Từ 5 năm trước, Solzhenitsyn liên tục đau yếu
nhưng vẫn cố gắng viết cho đến hơi thở cuối cùng. Tới ngày 11/12/2008,
Solzhenitsyn sẽ tròn 90 tuổi.
Con đường đau khổ
Trong lịch sử
văn học và xã hội Nga, Aleksandr Solzhenitsyn là một nhân vật lớn và vì thế,
cũng rất phức tạp. Những đoạn trường mà ông đã nếm trải cũng như những vinh quang mà ông đã có vừa
mang tính khu biệt, vừa mang những nét điển hình cho cả một thời đại ở đất nước
bao la, hùng hậu nhưng luôn luôn bị
chọn làm nam châm hấp thụ tất cả những mâu thuẫn lớn lao của nhân loại.
Bi kịch
trong số phận của Solzhenitsyn là ở chỗ,
trong phần lớn cuộc đời mình, ông luôn là người không hợp thời và vì thế, đã vừa không
hữu dụng cho Tổ quốc mình, vừa dễ bị những đối thủ của dân tộc Nga lợi dụng với
những mục đích hiển nhiên không nhằm mang lại phúc lợi trước hết cho dân tộc Nga.
Aleksandr
Solzhenitsyn sinh ngày 11/12/1918 ở
Kislovodsk. Tuổi thơ của nhà văn tương lai trôi qua trong không khí khắc
nghiệt của thời nội chiến. Cậu bé Sasha sớm mồ côi cha nên đã phải chịu
nhiều thiếu thốn cực khổ về vật chất ngay từ khi còn rất nhỏ.
Năm 1925, Solzhenitsyn lên thành phố Rostov trên sông
Đông và tốt nghiệp trung học tại đó. Sớm có thiên tư văn học, ngay từ năm 19 tuổi, Solzhenitsyn đã
nảy ra ý định viết một bộ tiểu thuyết thật đàng hoàng về chiến tranh thế giới
thứ nhất.
Tuy nhiên, gia cảnh khó khăn đã buộc chàng thanh niên
thông minh dĩnh ngộ này phải vào học vật lý và toán ở Trường Đại học Tổng hợp Rostov. Cũng tại đó, nhà văn
tương lai đã cưới một nữ sinh
viên cùng năm học tên là Natalia Reshetovskaya. Đó là người vợ thứ nhất của
ông.
Khi đã
trưởng thành rồi, trung thành với mơ
ước thời trai trẻ, Solzhenitsyn muốn trau dồi kiến thức văn học nhưng đã
không kịp tốt nghiệp mặc dù đã học hai năm ở khoa Hàm thụ Trường Đại học Triết học, Văn học và Lịch sử Moskva
vì ngày 2/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nhân dân Liên
Xô bắt buộc phải bước vào cuộc chiến
tranh Vệ quốc vĩ đại (tháng 6/1941).
Solzhenitsyn
nhập ngũ và phục vụ ở trong lực lượng pháo binh cho tới khi chiến tranh kết
thúc. Và thật không may, vì vạ miệng có lời lẽ vô tình xúc phạm tới lãnh
tụ nên anh sĩ quan trẻ Solzhenitsyn dù có mấy huân chương chiến công nhưng vẫn phải chịu cảnh giam cầm.
Trong cảnh ngộ
đó, Solzhenitsyn dường như đã trở thành một con người khác hẳn: ít nói, không cả tin, không ngại làm
bất cứ việc gì và lúc nào cũng âm thầm nung nấu một khát vọng sống sót tới
vô cùng tận… ở chốn lưu đày,
Solzhenitsyn đã ghi chép lại những điều tai nghe mắt thấy lên giấy gói
thuốc lá để rồi về sau sử dụng vào sáng tác tiểu thuyết "Vòng tròn đầu
tiên"…
Có lẽ tình huống không ai chủ định gây nên nhưng vẫn xảy ra này đã làm đảo lộn
trong Solzhenitsyn rất nhiều lăng kính nhân văn khiến cho ngòi bút của ông khi
đã trở thành nhà văn luôn luôn khắc nghiệt với những khung cảnh quanh mình.
Thiên tài văn học cũng không làm cho Solzhenitsyn trở nên "nhân tình thế
thái" hơn với thời mà ông sống.
Rời khỏi chốn
lưu đày ngày 5/3/1953, Solzhenitsyn đã mang theo mình những triệu chứng
của bệnh ung thư dạ dày, nhưng rồi
ông đã tìm được đúng thầy đúng thuốc ở Tashken (thủ đô nước Cộng hòa
Uzbekistan) và lành bệnh.
Được khôi phục quyền công dân, Solzhenitsyn chuyển về cư
trú tại Riazan và dạy toán lý trong một trường phổ thông. Đồng thời, ông đã thả mình theo những giấc mơ văn học. Và năm 1962, trên tạp chí Thế Giới Mới do nhà thơ cựu chiến binh lừng lẫy A.T.
Tvardovsky làm Tổng biên tập, đã công bố tác phẩm văn học đầu tiên của
Solzhenitsyn, truyện dài "Một ngày của Ivan Denisovich".
Và ngay lập tức, Solzhenitsyn được đón nhận nhiệt liệt
vào làng văn Xôviết. Năm 1964, ông thậm chí còn được đề cử vào danh sách nhận Giải
thưởng Lênin…
Tuy nhiên, những
ký ức có lẽ là rất nặng nề về những năm tháng bị lưu đày đã khiến Solzhenitsyn
bốn năm sau đó cho ra mắt độc giả một bộ tiểu thuyết mang tinh thần khác
"Quần đảo GULAG".
Tác phẩm chưa hẳn đã có
giá trị văn học cao nhưng chân thực tới mức độ trần trụi và chứa đựng
nhiều thiên kiến xã hội này đã ngay lập tức bị những thế lực thù địch với Liên
Xô lợi dụng như một văn bản chống lại
tất cả những giá trị Xôviết và tiếp theo đó, chống lại cả những lợi ích chính
đáng của dân tộc Nga.
Trong điều kiện
Liên Xô lúc đó, một hành vi như thế không thể được bỏ qua và mọi sự cứ dần dà
quá mù ra mưa, tới năm 1969,
Solzhenitsyn đã bị khai trừ ra khỏi Hội Nhà văn Liên Xô. Đổ thêm
dầu vào lửa là giọng điệu tuyên truyền ở phương Tây, cố tình đào sâu thêm vực thẳm tinh thần giữa chính quyền
Xôviết với nhà văn khiến hai bên càng ngày càng không hiểu đúng về nhau.
Mọi sự càng trở nên nghiêm trọng hơn nhất là khi các thế lực thù địch với Moskva đã
lợi dụng việc trao Giải thưởng Nobel
văn học cho Solzhenitsyn năm 1970 để kích động tâm lý chống Cộng, chống
chủ nghĩa xã hội, chống nước Nga. Kết
cục là Solzhenitsyn phải lãnh đủ những hệ lụy không hay. Năm 1974, ông bị
trục xuất khỏi Liên Xô trước đây.
Ở đâu cũng lạ
Cực chẳng đã,
Solzhenitsyn cùng người vợ thứ hai
và con cái đã phải hơn hai chục năm sống nơi đất khách quê người,
thoạt đầu ở Thụy Sĩ rồi sang Mỹ, định cư tại Vermont. Tuy nhiên, trong sâu thẳm
tư tưởng, nhà văn không bao giờ là "người đàng mình" của những
thế lực chống lại nhân dân Nga.
Bản thân ông cũng dị ứng với những giá trị văn minh tư bản
chủ nghĩa ở phương Tây. Điều này lý giải tại sao là sau những ồn ào đầu cơ
quanh tên tuổi và những tác phẩm có vẻ như chống lại Điện Kremli của Solzhenitsyn, phương Tây đã mau chóng trở
nên nguội lạnh với những khát vọng văn học đích thực của Solzhenitsyn.
Tại phương Tây, Solzhenitsyn vẫn là một gương mặt lạc lõng: cánh tả không ưa ông vì cái mà họ cho là sự phản
bội của ông đối với Tổ quốc, còn cánh hữu lại bực mình vì ông không chung đường
với họ trong những cố gắng chống lại Moskva một cách vô độ và mù quáng.
Trong bối cảnh như thế, nhà văn trở nên không hữu dụng với
cả hai bên chiến tuyến. Được coi là người có khả năng đánh thức lương tri nhân
loại nhưng Solzhenitsyn đã không thể đánh thức phương Tây tin vào những
ý niệm nhân văn đậm màu không tưởng
của ông…
Thực ra, các
thế lực cầm quyền ở phương Tây cần Solzhenitsyn như một vũ khí để chống lại
Liên Xô trước đây chứ không hẳn đã như một nhà văn hợp khẩu vị của họ. Họ càng không cần Solzhenitsyn như một
triết gia mang tầm nhân loại. Đó là một sự thật đau đớn mà có lẽ cho tới phút
cuối của cuộc đời mình, Solzhenitsyn cũng không muốn "ngộ" ra…
Tha hương, lại
lạ lẫm với không gian tư bản chủ nghĩa đầy rẫy những khiếm khuyết mà con mắt
tinh anh của một nhà văn lớn như ông không thể nào không nhận thấy,
Solzhenitsyn không biết tìm ở đâu nơi trú ẩn cho trí tuệ và tài năng
ngoài việc viết những điều mà ông cho rằng nước Nga cần để trở nên xứng đáng với
thiên chức của mình.
Và dần dà, theo dòng thời gian, ông có vẻ như ngày càng trở nên bảo thủ hơn trong cách
nhìn nhận thế sự. Những năm cuối đời, Solzhenitsyn có thiên hướng hoài cổ, bỗng dưng lý tưởng hoá quá khứ Sa hoàng mà dân tộc từ hơn 90 năm trước đã một
lần kiên quyết rũ bỏ bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại năm 1917.
Từ năm 1989,
các tác phẩm của Solzhenitsyn dần dần được in lại ở Nga. Năm 1990, ông được nhận
lại quốc tịch Nga. Tháng 5/1994, Solzhenitsyn cùng gia đình trở lại quê
hương. Và thật trớ trêu, ông cảm thấy
Tổ quốc đã trở nên lạ lẫm với ông nhường nào khi để cho không khí tư bản chủ nghĩa mà ông đã rất chán
ngán ở phương Tây tràn vào hăm hở.
Những kế sách
cải tạo nước Nga mà Solzhenitsyn đã ấp ủ nhiều năm ở hải ngoại hoá ra lại
không cần thiết với một nước Nga mà ông Boris Yeltsin, Tổng thống Nga lúc đó,
đang muốn làm cho dứt bỏ với quá khứ Xôviết. Lại thêm một lần nhà văn trở nên lạc
lõng với xung quanh.
Những khẩu hiệu mang nặng tính dân tộc chủ nghĩa quá đà
mà ông đưa ra ít thuyết phục được ai trong xã hội Nga, thậm chí còn gây nên nhiều
cuộc tranh luận nảy lửa. Cuốn sách "Hai trăm năm cộng sinh" của ông,
xuất bản năm 2000 đã làm xuất hiện cả những lời buộc tội về tính dân tộc chủ
nghĩa quá đà và bài Do Thái.
Những tác phẩm mới của ông cũng không còn sức hấp dẫn với
tầng lớp độc giả hiện đại…
Khi Vladimir Putin lên nắm quyền trong Điện Kremli,
Solzhenitsyn mới cảm thấy nước Nga mà ông yêu quý đi vào đúng quỹ đạo. Tuy
nhiên, sự thật là ông Putin đã hành xử theo cách hiểu của mình về một nước Nga nhìn vào tương lai nhưng không bác bỏ quá khứ chứ không phải
theo những "toa thuốc" có lẽ đã không hợp thời mà nhà văn lớn
Solzhenitsyn đã một mình nung nấu khi ly hương…
Ngay cả khi Điện
Kremli tỏ ra trọng thị Solzhenitsyn, trao cho ông cả giải thưởng nhà nước của
LB Nga năm 2007, thì thực chất, nhà văn cũng không có được ảnh hưởng gì
đáng kể vào việc quốc gia đại sự. Ông dần dà trở thành một nhân vật mang tính
nghi thức trong tâm tưởng người Nga
hơn là một nguồn sáng trí tuệ cần thiết cho cuộc sống đương đại.
Cái quan định luận
Đám tang
Solzhenitsyn đã được tổ chức trọng thể tại trụ sở mới của Viện Hàn lâm
Khoa học Nga, số nhà 32 trên đại lộ Lênin trong hai ngày 5 và 6/8, khi nhiều
lúc Moskva mưa khá to. Mộ nhà văn,
theo đúng ý nguyện của người
đã khuất, được đặt ở tu viện Donsky, một trung tâm Chính giáo ở Moskva,
nơi lưu giữ nhiều kỷ vật thiêng liêng. Thời trẻ, Solzhenitsyn đã rất hay tới
đây…
Cái quan định luận, rồi đây sẽ còn có nhiều lời đánh giá
và nhận xét về vai trò đích thực của Solzhenitsyn trong lịch sử văn học và xã hội
Nga thế kỷ XX. Hay dở thế nào, hậu sinh sẽ phán định.
Nhưng có một điều có thể đoan chắc từ bây giờ, Solzhenitsyn
là một trong những trường hợp may mắn
của văn học Nga vì ngay khi còn sống, dù đúng dù sai, ông đã được đối xử
ở đỉnh cao thành tựu của mình.
Nghĩ cho cùng, đã, đang và sẽ có bao nhiêu tài năng lớn
cho tới khi nhắm mắt vẫn không được biết tới sự thụ hưởng kết quả rất xứng đáng
được có từ những mồ hồi và nước mắt,
thậm chí cả máu của mình trong sáng tạo
PHAN HẰNG ANH
Theo VNCA 2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét