Góp vào chương
trình văn nghệ sôi động là các nghệ sĩ Đoàn Nghệ thuật Quảng Nam
và Đội Cồng chiêng Kon Tum, nơi Thu
Bồn đã gắn bó cả trong chiến tranh và hòa bình. Nhiều bài thơ Thu Bồn được ngâm, nhiều bài hát phổ thơ
Thu Bồn được trình diễn chen giữa các màn múa hát và cồng chiêng. Nhiều
kỷ niệm về nhà thơ được những người
bạn cùng thời kể lại để thấy tính cách và tầm vóc, sự gắn bó của Thu Bồn với đất
nước, với quê hương. Chỉ có thể là tài năng Thu Bồn mới có sức tập hợp tự nguyện
ấy từ bạn bè và người hâm mộ.
Nhà thơ
Thu Bồn
Chăm lo kinh
phí cho ngày giỗ và đêm văn nghệ một phần là do mẹ con chị Đỗ Thanh Thu và con
trai Hà Băng Ngàn. Nhà văn Nguyên Ngọc đã kể lại những gian truân, cách
trở của mối tình lớn Thu Bồn và Thanh Thu, để đôi bạn trẻ cùng quê tìm lại được
nhau sau mấy năm xa cách vì đất nước bị cắt chia. Vốn là bạn học từ nhỏ
nhưng năm 1954, Thu Bồn theo
đơn vị tập kết ra Bắc. Chị Thu ở lại tiếp tục hoạt động. Chị bị bắt
vì tham gia biểu tình.
Thấy không thể sống ở quê, chị phải tránh vào Sài Gòn,
móc nối hoạt động trong đội Biệt động của thành phố. Còn Thu Bồn năm 1955 tập kết
ra Bắc, lần lượt học Trường Sĩ quan Lục quân, Đại học Sư phạm, Trường
Tuyên huấn - Báo chí. Năm 1960, anh thuộc lớp văn nghệ sĩ đầu tiên trở lại chiến
trường, cùng đi với Nguyễn Chí
Trung, Thanh Giang… vào Tiểu ban Văn nghệ của Quân khu V.
Trong một dịp
về vùng giáp ranh công tác, Thu Bồn đưa một tấm ảnh nhỏ có hình một cô gái nhờ
Nguyên Ngọc hỏi thăm tin tức. Sau 1954, đã có quá nhiều biến động, mãi mấy
năm sau mới có một người quen chỉ cho nơi ở của bà mẹ cô gái trong ảnh.
Nhờ đó mà Thu
Bồn biết địa chỉ chị Thu ở Sài Gòn. Nhiều phen thư từ đi lại, chẳng dễ dàng gì, nhưng cuối cùng họ đã nhận ra là
không thể thiếu nhau. Nể tình tác giả “Bài ca chim Chơrao”, đích thân Bí thư Khu ủy Võ Chí Công
phải liên hệ với Thành ủy Sài Gòn xin cho chị Thu về Khu V công tác, rồi lo đám
cưới cho hai người.
Mọi chuẩn bị về vật chất như gạo thịt, gà, bánh kẹo mua từ
vùng giáp ranh đã xong, nhưng lễ cưới
sắp bắt đầu thì một trận bom tơi bời làm tanh bành tất cả. Căn cứ lập tức di chuyển. Một tuần sau trở về,
thủ trưởng cơ quan tuyên bố coi như đám cưới đã tổ chức xong, cho hai người về ở với nhau. Những năm đó, rừng Khu
V đã bị rải chất độc diệt cỏ.
Lính tráng uống nước suối đổi màu mà không biết hậu họa.
Thu Bồn nằm trong số những người
lính không may đó. Hà Thảo Nguyên, con đầu lòng của Thu Bồn và chị Thu bị
bệnh máu trắng mất năm 16 tuổi… Năm 1969, chị Thu có bầu cháu thứ 2, Thu Bồn lại
bị thương, cả hai được ra Bắc. Chưa ra đến cửa rừng thì chị Thu sinh cháu ở
làng Ho, Tây Quảng Bình, đặt tên là Hà Băng Ngàn. Do ảnh hưởng chất độc da cam, nay gần 50 tuổi, Hà Băng
Ngàn vẫn không có khả năng học tập và làm việc.
Có lẽ, không
có thời nào, không có một đất nước nào như ở nước ta, bao nhiêu tình yêu
đẹp đẽ lại sản sinh ra những sinh linh không hoàn chỉnh. Đó là hàng vạn con người dị dạng muôn vẻ vì ảnh hưởng chất độc da cam do chiến tranh.
Nhà thơ Liên
Nam khi ra Bắc cũng có một người con bị bại não. Có nhiều lý do khi một
cuộc tình bắt đầu rất đẹp, đã không duy trì được bền lâu sau chiến tranh. Những
người con bị chất độc da cam cũng là một ám ảnh nặng nề. Sau này tan vỡ với chị
Thanh Thu, dẫu có yêu và lập gia đình vài lần, nhưng nỗi ám ảnh và mặc cảm đó làm cho Thu Bồn sợ cả
việc có con.
Ngoài 10 Trường
ca, 10 tiểu thuyết, Thu Bồn còn các tập thơ; “Tre xanh” (1969), “Mặt đất không quên” (1970),
“Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên” (1992), “Tôi nhớ mưa nguồn” (1999), “Đánh đu cùng dâu bể” (2001). Có
khá nhiều mỹ nhân từng là nguồn cảm hứng cho Thu Bồn làm nên những bài
thơ tình tha thiết.
Cũng có nhiều giai thoại xung quanh từng bài thơ, đều là do bạn bè thân thiết kể lại,
nhưng là những người nhiều khả năng tưởng tượng, nên không phải ai cũng nói
đúng sự thật. Mà sự thật trong tình cảm, cũng như trong thơ là những điều không phải bao giờ cũng
rạch ròi. “Tạm biệt Huế” là một trong số đó.
Như một cơ duyên. Tháng 5 này trở lại Huế, nhà văn Tô Nhuận
Vĩ nhắn tôi phải nhất thiết gặp một người, giờ là Việt kiều vừa ở Pháp về. Chị
chính là nữ nhiếp ảnh Minh Châu, 35 năm trước chị là nguồn cảm hứng để Thu Bồn
làm bài “Tạm biệt Huế”.
Hơn hai kiếp
lưu lạc của nàng Kiều, rời Huế vô Sài Gòn, lấy chồng ở Đà Lạt, chồng mất
đột ngột, một mình nuôi hai con, giờ đều đã trưởng thành trên đất Pháp. Mấy năm gần đây, mỗi năm về Huế mấy tháng để săn
sóc mẹ già đã 95 tuổi. Đó cũng là thời gian chị cùng chồng mới là một cựu
Đại tá quân đội Pháp dạy tiếng Pháp miễn phí cho một số học sinh, sinh viên, như một việc thiện nguyện ở Việt Nam.
Có lần nhà
cháy, nhiều khi trắng tay, vậy mà buổi trưa gặp nhau ở một quán nhỏ ở Huế, có sự
chứng kiến của nhà văn Tô Nhuận Vĩ và mấy bạn bè văn nghệ, người ấy quyết định
chuyển cho tôi tờ giấy nhỏ, mực phai, giấy rách, nhưng còn nguyên vẹn
bài thơ xưa Thu Bồn đã chép tặng
mình. Bài thơ có tên: “Bởi
vì em”.
Tặng Minh Châu
và Huế cùng những ai yêu Huế. 8-1983”. So với bài “Tạm biệt Huế” được
công bố sau này, tác giả có sửa chữa và biên tập lại từ nguyên tác bài “Bởi vì
em” cho dễ in hơn. Bài thơ được
hoàn thành trong đêm 6-8-1983, một đêm không ngủ.
Đó là thời
gian Thu Bồn cùng mấy người bạn về Huế. Hội Văn nghệ Huế cử một nghệ sĩ nhiếp ảnh
dẫn các văn nghệ sĩ đi tham quan các di tích và chụp ảnh. Minh Châu khi ấy mới
ngoài 20, gương mặt rạng rỡ, nụ cười thần tiên, đôi mắt luôn biết nhìn
thấu lòng người, và một vóc dáng cao
lớn xinh đẹp. Một người say cái đẹp và hoạt khẩu như Thu Bồn đã không bỏ
lỡ cơ hội để được trò chuyện
và tiếp cận nữ nhiếp ảnh trẻ trung, hấp dẫn. Họ có ba ngày “say sóng” bên nhau,
khi đi tham quan các lăng tẩm, đền đài của Huế, thù tạc cùng các bạn văn nghệ
sĩ xứ Huế.
Buổi sáng chia tay, Thu Bồn trao cho Minh Châu bài thơ làm sau một đêm không ngủ. Mười năm sau,
Thu Bồn có dịp trở lại thăm Huế, rất nhiều hướng dẫn viên du lịch đã đọc
cho khách tham quan nghe bài thơ như
một cách giới thiệu những vẻ đẹp của Huế. Nhưng bóng dáng người xưa đã
biệt tích. Trong bản thơ viết tay tặng
Minh Châu có những câu như một lời tiên tri: “Xin chào Huế một lần anh đến /
Để ngàn lần anh nhớ hư vô / Em rất thực nắng thì mờ ảo /
Xin đừng nhầm em với Cố đô / Tạm biệt Huế với Châu là vĩnh biệt / Hải Vân ơi xin Người đừng tắt ngọn sao khuya / Tạm
biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng /Anh trở về hóa đá phía bên kia”.
Dẫu đã
15 năm tác giả yên nghỉ trong nấm mộ đá hoa cương có rất nhiều kỷ vật bạn bè tứ
xứ gửi theo trong nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh, nhưng bài thơ “Bởi vì em - Tạm biệt Huế”
vẫn hiện diện trong lòng những người
yêu thơ, yêu Huế.
Sau khi được
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, gia đình và bạn
bè nhà thơ Thu Bồn đều mong ước ở
trường học nơi quê nhà Điện Thắng có một phòng lưu niệm những di vật và tác phẩm của Thu Bồn - nhà
thơ lớn của quê hương.
Hà Nội 10.6.2018
NGÔ THẢO
_____________________
BỞI VÌ EM
Tặng Minh Châu và Huế cùng những ai yêu Huế
Bởi vì em dẫn
anh lên những ngôi đền cổ
Chén ngọc giờ
chìm dưới đáy sông sâu
Những lăng tẩm
như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu
Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ hư vô
Em rất thực nắng
thì mờ ảo
Xin đừng nhầm em với Cố đô
Tạm biệt Huế với Châu là vĩnh biệt
Hải Vân ơi
xin Người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt Huế với
chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa
đá phía bên kia
Anh chẳng phải
người đi niệm Phật
Lần đầu ăn bữa
cơm chay
Rau quả Kim
Long, đậu tương Hoài Đức
Môi anh gần giống
vị ớt
cay
Nhịp cầu cong
và tà áo lụa
Một đời anh đi
mãi chẳng về đâu
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Con sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Áo trắng hỡi anh tìm em đâu thấy
Nắng minh mang mấy nhịp Trường Tiền
Nón rất Huế mà đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
Đêm 6-8-83
Một đêm không ngủ.
(Ký tên) THU BỒN
BÀI LIÊN QUAN:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét