Nhà phê bình Tôn Phương Lan
1.
Tôi nhìn
thấy Xuân Diệu lần đầu tiên ở quê tôi - làng Nhượng - khi đó còn chưa có
chiến tranh. Trong hành trình về quê hương Hà Tĩnh nói chuyện thơ thì quê tôi là một điểm đến của ông. Đó
là một buổi tối đẹp trời.
Cử tọa vòng trong vòng ngoài kín cả sân trụ sở Ủy ban xã:
ngoài giáo viên, học sinh còn có nhiều người làm nghề chài lưới và các chị ở nhà chuyên nuôi con và nội trợ. Trước một
cử tọa đông và háo hức, Xuân Diệu nói rất say sưa về thơ mình. Mỗi lần
bình xong một bài, đọc lại toàn bộ bài thơ đó, ông lại cúi đầu chào và tất cả cử tọa lại vỗ tay nồng nhiệt.Người
nghe như bị ông hút hồn vì ở một miền đất vốn yêu và khát văn chương (thời
bấy giờ phương tiện truyền thông quá hiếm so với bây giờ) mà lại được thực mục
sở thị một nhà thơ danh tiếng như
Xuân Diệu là một điều hiếm nên dường như không có ai bỏ về giữa chừng. Đang lúc
cao trào thì một chị mang theo con nhỏ bị nó đòi đi tiểu. Chắc bỏ ra thì
tiếc, lại sợ mất chỗ ngồi tốt, chị ta đành hồn nhiên mà cho con tè tại chỗ. Nhiều
người thấy vậy khó chịu vì cảm
thấy quá mất thể diện với ông. Nhưng
Xuân Diệu không lấy điều đó làm vì, vẫn tiếp tục một cách say sưa. Sau này, tôi mới biết rằng, ông ghi nhận
đằng sau những cử chỉ không được lịch sự lắm đó của những người dân quê là tình
cảm, nhiệt tình của độc giả đối với ông và tình yêu đối với văn thơ. Với ông,
điều đó rất cần.
Có hàng trăm buổi bình thơ trước công chúng thôn quê, tôi chắc những trường hợp như trên không là hy
hữu. Bởi khi Xuân Diệu bình thơ, nói chuyện thơ, ông có một sức hấp dẫn lạ lùng.
Một trường hợp
khác mà gần đây Giáo sư Hà Minh Đức có kể lại trong cuốn Xuân Diệu - vây giữa tình
yêu. Hồi đó tôi, Mai Hương và Bích Thu còn trẻ và cùng mới về nhận công tác tại
Viện Văn học. Một buổi tối, Giáo sư dẫn chúng tôi đến thăm Xuân Diệu tại nhà
riêng trong biệt thự có cây hoàng lan nằm trên một con phố yên tĩnh. Căn phòng
ông ở không thật rộng, có lát gạch hoa, lại có nhiều giá xếp đầy sách. Trên bàn
làm việc có mấy bông hồng trắng cắm trong chiếc cốc thuỷ tinh càng tôn thêm vẻ
quý phái, lịch lãm của chủ nhân. Trong không khí thoải mái, câu chuyện giữa ông
với thầy trò chúng tôi đã diễn ra rất thân mật.
Tôi ngồi nghe ông nói và tranh thủ quan sát khuôn mặt,
mái tóc bồng bềnh của ông, nhất là mỗi khi ông ngúc ngắc cái đầu lúc này tóc đã
bạc. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi nhanh nhảu giơ tay bắt tay ông và buột miệng chào ông bằng bác (vì lúc đó tôi
nghĩ ông hơn tuổi bố tôi nên xưng hô
thế là phải phép). Không ngờ, ông lại ngắc ngắc cái đầu theo thói quen tỏ vẻ thật
sự ngạc nhiên với cái giọng Bình Định nhấn và kéo dài từng âm tiết một
như đay đả: là bác à. Cái đại từ này
tôi nghe nó lạ quá.
Tôi lúng túng
chưa biết nói thế nào thì may quá, thầy Hà Minh Đức đã đỡ lời. Các cô
này cũng còn trẻ cả đấy. Tuy nhiên, chỉ nên gọi bằng anh cho dễ vì anh Xuân Diệu
đây là nhà thơ tình…. Rút
kinh nghiệm sau lần đó, tôi cũng đỡ lúng túng hơn khi chọn đại từ xưng hô với
các nhà thơ, kể cả các nhà thơ lớn
tuổi như Huy Cận và Tế Hanh. Nhưng với Tô Hoài thì tôi vẫn gọi bằng bác,
dù Tô Hoài ít tuổi hơn. Có lẽ vì
ông không phải là nhà thơ tình?
Lần cuối cùng tôi gặp Xuân Diệu là dịp Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc năm 1985 mà tôi
được tham dự. Tối hôm trước, có cuộc giao lưu giữa các đại biểu và các nhà văn
Thủ đô. Chúng tôi chỉ biết là ông đang bị mệt vì không thấy ông đến.
Sáng hôm sau, vừa đến hội trường chúng tôi bàng hoàng nhận được thông tin là
ông mất đêm qua do nhồi máu cơ tim.
Khi Ban tổ chức chính thức thông báo, chúng tôi đã dành thời gian để mặc
niệm ông. Không khí trong Hội trường trầm hẳn xuống khi nhà văn Lữ Huy Nguyên
thay mặt Ban tổ chức đọc bài viết dài 20 trang đánh máy cuối cùng vốn là tham
luận ông viết cho Hội nghị.
Chúng tôi lắng nghe và hình dung ra trước mắt mình vẫn là một nhà thơ Xuân Diệu với thói quen thỉnh thoảng lại
ngúc ngắc cái đầu đang ân cần dặn dò lớp nhà văn trẻ bằng sự trải nghiệm
của cuộc đời hơn năm mươi năm cầm bút, bằng tình thương yêu đối với lớp trẻ chúng tôi và bằng tinh thần
trách nhiệm đối với sự nghiệp văn học của dân tộc. Sau đó, một số đại biểu rủ
nhau vào ngay bệnh viện Việt-Xô. Một số tham gia lo việc tang lễ. Hôm đưa tang
ông, một trong số những đại biểu trẻ được vinh dự khiêng linh cữu ông vào nhà
tưởng niệm, túc trực rồi sau đó khiêng quan tài ông đưa ra xe tang.
Tôi đã
chứng kiến nhiều đám tang của văn nghệ sĩ ở trụ sở 51 Trần Hưng Đạo. Có lẽ sau
đám tang Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh thì đám tang Xuân Diệu là đông và xúc động
nhất: cả một rừng người và một rừng những vòng hoa màu. Rất nhiều người khóc. Những ai đến viếng ông chắc họ đều
hơn một lần đọc và thuộc ít nhiều thơ ông. Biết đâu những câu thơ tình của
ông từng là nhịp cầu tình yêu cho bao đôi lứa?
Trong đám tang đó, duy nhất có một bó hoa trắng (màu hoa
chỉ sự trinh trắng, thường dùng
trong đám tang của người chưa lấy vợ lấy chồng hoặc trẻ em) rất đẹp - giống như
hoa tết dùng cho sinh nhật bây giờ, là của đạo diễn Bạch Diệp đến viếng. Tôi đi
bên xe tang cạnh nhà thơ Hoàng Trung Thông lúc này cũng đang im lặng nhưng mắt
thì đỏ hoe. Chúng tôi nhìn màu trắng của hoa - những bông hoa từ chính
người đàn bà danh chính là vợ duy nhất
của ông dầu họ sống chung với nhau trong một quãng thời gian không dài;
và đưa mắt cho nhau, ngậm ngùi ngẫm nghĩ về ông mà thương ông khôn xiết. Tôi chợt nghĩ: liệu trong bấy
nhiêu thành quả lao động đồ sộ mà ông để lại cho đời có bao nhiêu phần trăm là
kết quả của một sự lao động để mà lãng quên nỗi bất hạnh về giới tính của
mình?
2.
Theo như cách
nghĩ của tôi, Xuân Diệu là người có ba quê : quê cha, quê mẹ và quê nơi mình
lớn lên, lập nghiệp và trưởng thành.
Cả ba quê ấy, theo những cách khác nhau đã thẩm thấu vào tâm hồn ông, tạo
nên tính cách, con người ông khá rõ.
Với Xuân Diệu sự sống đúng là không bao giờ chán nản. Ông
là người lao động cần cù với cái
nghĩa đúng nhất, đầy đủ nhất. Không biết có phải do hoàn cảnh? Do bẩm sinh? Do
tính cách? Hay là sự lựa chọn? Ông lao động chữ nghĩa như một người khổ sai suốt
cả cuộc đời mình. Có mặt gần như trên hầu hết các thể loại văn học: thơ, văn xuôi, tiểu luận phê bình,
nghiên cứu, dịch thuật, ông còn làm báo, làm tuyên truyền, làm cán bộ xuất bản,
làm công tác bồi dưỡng những người
viết trẻ, đi bình thơ trước
công chúng, giới thiệu văn học nước ngoài vào Việt Nam và giới thiệu văn học Việt
Nam ra nước ngoài.
Chỉ riêng công
việc khảo cứu các nhà thơ cổ điển của ông, từ góc nhìn của một người làm nghiên cứu, chúng tôi hoàn toàn
tâm phục khẩu phục! Chưa kể ông còn là một người tham gia hoạt động xã hội tích cực, sẵn
sàng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những
đóng góp lớn. Trong chiến tranh, ông đã vào tuyến lửa khu IV không dưới mười lần.
Sau ngày đất
nước thống nhất, dù đã bước
vào tuổi lục tuần và giao thông ngày ấy không hề thuận lợi ông vẫn tranh thủ đi
khắp miền Nam. Đi đâu, đến đâu, ông cũng tìm cách “giao cảm với đời” và
có được những bài thơ mang dấu ấn của
miền đất đó. Những năm cuối đời nhìn sang lớp bạn bè đi kháng chiến một
số đã lần lượt ra đi, ông ý
thức cái chết như một quy luật tự
nhiên sẽ đến vì quỹ thời gian của ông đã như miếng da lừa đang ngày càng co nhỏ lại. Ông hiểu
rằng “con người cần phải biết nhìn về nơi chốn cuối cùng của mình để những ngày tồn tại trên trái đất này
sao cho xứng đáng”. Nên ông dồn hết mọi thời gian, tranh thủ từng phút, từng giờ
để làm việc.
Những kỷ niệm, những câu chuyện, giai thoại về sự cần cù,
về ý chí, nghị lực của ông đã tỏa ra quanh ông một vầng hào quang nửa hư nửa thực về một sức làm việc phi thường
vào thời điểm trên bom dưới đạn, vào thời buổi gạo châu củi quế, người người chỉ
lo vào việc mưu sinh. Cố nhà thơ Phạm Tiến Duật từng viết về ông “Suốt một thế
kỷ qua hầu như ngày nào anh cũng viết, đến nay đã có mấy nghìn trang
sách. Thế mà không hề có một dòng nào thờ ơ, không có một dòng nào lãnh đạm. Xuân Diệu không khi nào nói để mà
nói, viết để mà viết. Trong ngôn ngữ của anh, khi cởi mở, khi cay nghiệt, lúc tỉnh
táo, lúc mê say, luôn đập một trái tim trung thực, luôn hồi hộp một nỗi niềm
khám phá”.
Nhiều bạn văn của ông cũng đều nói rằng Xuân Diệu là một
người rất trung thực, lắm khi trung
thực đến hồn nhiên nên dễ bị người khác nghĩ ông có phần nghiệt ngã (chỗ
này người ta không tiện nói là ông vụng).
Ông không ngần ngại nói ra những bài thơ nổi tiếng trước cách mạng của ông đã
ảnh hưởng nhà thơ Pháp nào kể cả khi
ông sang Pháp nói chuyện trước Việt kiều đã đành mà đối với thơ của một
số cây bút vào nghề, ông cũng vạch ra một cách thẳng thừng, dù rất tận tâm về
cái được và chưa được, khiến họ thoạt
đầu không khỏi khó chịu, nhưng qua cơn tự ái thì lại cảm phục và kính trọng
ông. Tôi nghĩ đức tính cần cù, ham học, giàu ý chí, nghị lực kể cả tính trung
thực đến vụng về này là một đặc tính của người xứ Nghệ mà chắc ông được di truyền
từ dòng máu của cha mình.
Trong số những câu chuyện “đời thường” được nhiều người kể
lại thì ấn tượng hơn cả là việc Xuân
Diệu rất coi trọng chất của bữa ăn. Đặc điểm này gắn rất chặt với tính mục đích
cao vốn là một phẩm chất nổi trội trong cung cách làm việc của ông. Là người có
quan niệm sống thiết thực, luôn coi trọng hiệu quả cụ thể, ông quan niệm một
cách rất thực tế rằng “có thực mới vực được đạo”.
Ngót ba mươi
năm ông đi xa rồi thế nhưng những người trẻ tuổi đọc và yêu thơ ông giờ đây chắc
cũng khó hình dung nổi một ông hoàng thơ tình - tác giả của những câu thơ nồng nàn tinh tế, những câu thơ đã thành kinh điển cho những người
đang yêu của nhiều thế hệ - mà lại phải tính toán lượng calo cần thiết cho cơ thể mỗi khi mua thức ăn
và tằn tiện trong chi tiêu!
Mẹ Xuân Diệu
là người Bình Định nhưng từ nhỏ, ông đã bị bố “bắt” về ở với mẹ già và
những năm ông sống ở Hà Nội, người mẹ
già ấy đã ở cùng ông. Dân Nghệ xưa nay vẫn được (hay bị) gọi là dân cá gỗ vì họ vốn nghèo nên phải tằn
tiện, chắt chiu trong sinh hoạt. Xuân Diệu là người gốc Nghệ. Tính tằn tiện, căn cơ đó của ông chắc có yếu tố di truyền, thậm
chí là được củng cố cả từ ảnh hưởng những bạn bè là dân “cá gỗ”. Như chúng ta đã
biết, đó lại là những năm kinh tế đất nước rất khó khăn… Nhưng mặt khác cũng phải
thấy rằng vì coi trọng chất lượng bữa
ăn mà những năm bao cấp khó khăn đó, Xuân Diệu vẫn đủ sức khỏe để đảm đang một
khối lượng công việc đồ sộ đến vậy.
Ông là người sống
theo điều mình thích, vẫn ham viết, ham đọc, cần mẫn như một con ong thợ.
Theo Vũ Quần Phương thì trong sổ ông lúc nào cũng có thơ chưa in, trong lòng lúc nào cũng có điều
định viết và bao giờ cũng có tác phẩm xếp hàng ở nhà xuất bản. Ông kể là một
bài của ông thường phải quay vòng
đủ 4 lần: viết cho hội thảo, hội nghị, sau đó đọc ở Đài phát thanh, in báo và
sau cùng là in vào sách. Chưa kể xuất
bản miệng!
Tôi không biết
trong con người Xuân Diệu có nét nào là đặc trưng của Bình Định quê dừa,
ngoài giọng nói còn mang âm sắc miền Nam rất rõ. Nói rằng ông là người có trái tim đa cảm, mặn mòi, có
tâm hồn luôn rộng mở… là riêng từ người mẹ truyền sang thì tôi e nói lấy được! Thì Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ và bao danh nhân khác của đất Hà Tĩnh đấy thôi. Cả Huy Cận bạn ông nữa:
tâm hồn và trái tim của họ như cây
đàn muôn điệu.
Có nhiều người
đã nói về cái chất trữ tình trong tư chất của con người Hà Tĩnh khi so sánh cụ thể với người anh em song sinh
Nghệ An vốn chất cách mạng đậm đà hơn! Có lẽ nói cho công bằng thì đó là
cái phần hoà hợp giữa hai tâm hồn bố mẹ để rồi có một Xuân Diệu thi sĩ, một
Xuân Diệu đa tình trong… thơ. Tư chất
đó đã góp phần làm nên một trong những gương mặt sáng giá nhất của nền thơ Việt Nam thế kỷ XX. Như ông từng viết Đội
ơn Thầy, đội ơn Má sinh con/ Cảm ơn Thầy vượt Đèo Ngang bất kể/ Cảm ơn Má biết
yêu người xứ Nghệ/ Nên máu con chung hoà cả hai miền.
Đương nhiên, để
có nên một Viện sĩ, một nhà văn hoá Xuân Diệu thì phải có Thăng Long -
Hà Nội. Hà Nội không chỉ là nơi ông
học Đại học, là nơi ông sống để rồi trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu
nhất của phong trào thơ mới. Hà Nội là nơi để cho tài năng Xuân Diệu trưởng thành
và phát triển, là nơi ông bước qua những mặc cảm về một tuổi thơ nghèo khổ để
hoà nhập vào một môi trường văn hoá, thâu nạp vào mình những kiến thức từ
sách vở, từ công việc, bạn bè. Đó là nơi có căn phòng nhỏ mà ông đã sống trong ba mươi năm cuối cuộc đời cùng một mái nhà với người bạn
tri ân tri kỷ Huy Cận, là địa chỉ tin cậy, nơi lui tới thường xuyên của mấy thế
hệ nhà thơ, nhà văn - những người chủ chốt đã làm nên nền văn học cách mạng.
Cho nên, tôi nghĩ, cả Bình Định, Hà Tĩnh và đương nhiên là Hà Nội nữa, tự hào
vì có Xuân Diệu. Cả ba quê đó đã hoà hợp để hình thành nên tư chất văn hoá nơi ông.
Những người
làm công tác nghiên cứu chúng tôi cũng rất cảm ơn ông đã để lại một gia
tài đồ sộ, phong phú và đặc sắc. Tinh thần làm việc cần cù, nghiêm túc với một
ý chí, nghị lực phi thường, một tinh
thần dũng cảm vượt qua những khó khăn, bất hạnh để “nhìn đời bằng đôi mắt
xanh non” của Xuân Diệu cũng là bài học lớn cho những ai muốn đi xa trên con đường
học tập và nghiên cứu.
TÔN PHƯƠNG LAN
Theo NVTPHCM
TÁC
GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét