Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

TRẦN NHÃ THỤY - VÒNG DANH LỢI KHÔNG CƯỠNG NỔI?

Tiểu thuyết “Hát”* của Trần Nhã Thụy viết theo lối giản lược truyện kể, một lối viết hiện đại, đánh dấu sự tiến triển thể loại trong Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ IV. Mấy năm gần đây, ta có thể thấy một số tiểu thuyết dịch làm nổi bật lối viết này, như “Mở rộng phạm vi đấu tranh” của Houellebeq, “Vô tri” của Kundera, “Lụa” của Barrico, “Tình ơi là tình” của Jelinek, v.v. Mỗi người một vẻ hoàn toàn khác biệt, nhưng tương đồng ở sự phân tích thực tại, được tập trung như những tia sáng soi qua thấu kính, sắc như dao phẫu thuật. Tiểu thuyết “Hát” phân tích sâu một góc thế giới của giai tầng trung lưu đô thị lớn đương thời, xẻ một nhát rạch phơi lộ đến nền móng tâm tư của bọn họ.
Nhà văn Trần Nhã Thụy

Một người đọc nào đấy sẽ có thể tóm lược câu chuyện trong tiểu thuyết “Hát” của Trần Nhã Thụy  như thế này: nhân vật chính tên là Kỷ, một trung niên người Sài Gòn, béo bụng, dư dả và an nhàn, an nhàn đến mức rất nhiều khi phải cố nghĩ xem làm sao cho trôi qua một ngày; Kỷ yêu thích ca trù và từng ra tận vùng Kinh Bắc để học hát; đột ngột một hôm Kỷ bị tai nạn xe máy, bị hai thanh niên cố tình đạp cho ngã văng xuống đường khi anh đang loạng choạng tay lái do  một thanh niên khác nữa dường như đã cố ý quệt vào anh; rồi những người gây tai nạn chạy mất, Kỷ chấn thương sọ não nằm bất tỉnh trong bệnh viện; bên giường bệnh, người tình của Kỷ là Lý, một thiếu phụ còn khá trẻ, suốt ngày trông nom anh và cố hát hết bài này sang bài khác để mong anh tỉnh lại.

Tóm tắt như thế liệu có ổn không? Yên tâm đi. Đấy chính là một thí dụ “nhại” theo cách giản lược trong lối viết của tiểu thuyết này. “Hát” được cấu thành bằng 43 chương ngắn, đánh số thứ tự; trong đó có 5 chương tư liệu tên là “Phụ lục” và một chú thích khá dài về tiểu sử ca sĩ thời danh Đan Trường, gần như một phụ lục nữa. Các chương đều kể theo cách lược giản những diễn biến câu chuyện, gần với văn phong trần thuật báo chí,  làm nổi bật một vài tình tiết hay câu/đoạn thật sự văn học của mỗi chương. Sự đan xen hai văn phong như vậy khá linh hoạt và cho thấy sự cân nhắc tỉ mỉ của người viết.

Chẳng hạn, ở chương số 30, một đoạn trần thuật – “Rời khỏi khách sạn, Kỷ vào một quán phở gọi tô tái bò viên. Tô phở nóng bốc khói. Mồ hôi Kỷ vã ra như tắm. Kỷ lại nghĩ đến Lý. Không hiểu sao từ khi đưa Xuân Nương về khách sạn, Kỷ bỗng nghĩ đến Lý,” – chen vào một mệnh đề hình ảnh gây liên tưởng và rung động sâu xa – “,không phải với toàn bộ tâm trí, nhưng từ tâm trí, những cái rễ như bò nhanh ra, túa đi tìm.

Và ở đoạn văn ba câu rất ngắn kết chương này, câu văn cuối đem lại một liên tưởng đầy hàm ngụ: “Thân hình Kỷ bập bềnh trong bồn nước. Và nước vẫn cứ chảy tràn ra ngoài sàn. Có biết bao là nước đã chảy đi trong cái đêm đó.”– Đây là một ẩn dụ khá quen về thời gian chảy trôi và biến chuyển sự đời, như người ta, rằng “bao nhiêu nước đã chảy qua dưới chân cầu.” Ẩn dụ này soi sáng đoạn văn, và rộng ra là soi sáng cả chương sách. Nó cũng như rất tự nhiên bật ra, tương hợp với một đặc tính của nhân vật Kỷ, đã được mô tả ngay từ đầu sách: anh ta thích những mặt nước đầy tràn.

Những tình tiết và câu/đoạn như thế khiến cho cấu trúc kể-giản lược qua các chương ngắn của tiểu thuyết này giàu tính “ý tại ngôn ngoại” và phong phú về nhịp điệu hành văn. Hai phẩm chất này khiến lối viết giản lược trở nên cân bằng: câu chuyện được kể với ít tình tiết hơn, ít chi tiết hơn, nhưng tăng cường sức tạo sinh nhiều tầng lớp về ý nghĩa bởi trần thuật thiên về tính hành động và hình ảnh.

Lối kể khách quan, thông qua mô tả hành động, mô tả các mối quan hệ xã hội và riêng tư,với rất ít bình luận trữ tình hay độc thoại, giúp bộc lộ đời sống nội tâm các nhân vật một cách sinh động, phức tạp và mâu thuẫn, nhất là với Kỷ - nhân vật chính của tiểu thuyết này.
Bìa tiểu thuyết “Hát” của Trần Nhã Thụy

Nhân vật Kỷ hiện lên là một dân trung lưu đô thị hiện đại: dư dật về tiền nong, có tay nghề chuyên nghiệp, độc thân, có “gu” về thẩm mỹ, hưởng thụ tiện nghi trong tình dục và trong những liên hệ thời thượng xã hội. Tất cả những đặc điểm tính cách bề ngoài đó lại mâu thuẫn với nhịp sống trì trệ, tâm thế bất an thường xuyên, bơ vơ lạc lõng và thất vọng sâu xa của nhân vật này. Toàn bộ được mô tả chủ yếu qua các hành xử của nhân vật, chứ không qua kiểu lời kể thuyết minh. Chẳng hạn, nhân vật Kỷ được mô tả mỗi lần một khác trong những cuộc ghé thăm gia đình – ba má và các anh trai chị dâu của anh ta, ở một khu phố khác cùng trong thành phố. Mối liên hệ gia đình sum vầy đầm ấm, đầy kỷ niệm cứ thưa vắng, đứt dần sau mỗi lượt. Hình ảnh Kỷ qua mỗi lần ghé nhà ngày càng cô độc, bị bỏ rơi, xa vắng, gây một ấn tượng về cảm giác bất an tăng dần.

Cảm giác bất an cũng được nhấn mạnh ngay từ mấy chương đầu, ở đoạn văn kết chương số 6, lần đầu mô tả ảo giác(sẽ còn lặp lại) của Kỷ về tiếng gõ cửa “mỗi lúc một to, có vẻ gấp gáp.” Đoạn mô tả này thật xuất sắc, xuất lộ mối căng thẳng tăng vọt trong giây lát, như một trực giác và đầy tính biểu tượng.

Và ngay đoạn văn trước đó, mô tả Kỷ nằm sấp trên giường trăn trở “như một con cá mắc cạn,”rồi ư ư hát trong họng – “Cái hơi trong của ca trù này không phát ra ngoài, chỉ đủ cho mình Kỷ nghe, đủ chuyển lên não giúp cho Kỷ thoát khỏi cơ chế thực vật,…” – là một cảnh mang tính dự báo về cái tai họa chung cuộc sẽ đến với nhân vật này: rất có thể anh ta sẽ sống đời thực vật. Đồng thời, chi tiết đó cũng phác họa một trong những ý nghĩa của “Hát”: cái nội tâm, cái tâm thức là một bài hát, là tiếng hát, không mô tả được, chỉ có thể hát lên được; và rộng ra thì đời người chỉ như một âm thanh dai dẳng, lạ lùng, khó hiểu nữa, vừa ngắn vừa dài, nghe như là hát.

Cái bài-hát-đời-người đó với nhân vật Kỷ chứa đầy mâu thuẫn: anh ta luôn luôn hành động để cố thoát khỏi cảnh an nhàn thụ động mà biểu trưng là cái bụng phệ cứ phệ mãi ra; anh ta sớm bị mặc cảm về tình dục nhưng lại trở nên rất từng trải về đàn bà; anh ta làm những việc không vụ lợi nhưng gặt hái tiếng xấu, bị chửi rủa, bị ám hại vì những người bám lấy vòng danh lợi; anh ta nâng niu một biểu trưng cái đẹp ở cô đào ca trù trẻ là nhân vật Xuân Nương để rồi phải đối mặt cảnh cô gái bị bắt cóc, bị hãm hiếp, gọi điện cầu cứu và rốt cục dẫn anh ta vào tai họa.

Nhân vật Kỷ được mô tả vốn có năng khiếu âm nhạc và thích hát, và ca khúc ưa thích nhất của Kỷ là bài “Hotel California” của nhóm rock “Eagle.” Không ngẫu nhiên mà chương “Phụ lục 3” dài nhất dành riêng để giới thiệu về ca khúc này, với trọn vẹn phần lời bằng tiếng Anh của nó. Có thể thấy qua suốt các cảnh và người trong “Hát”, đối với nhân vật Kỷ, đô thành Sài Gòn và rộng ra cuộc đời anh ta, xứ sở này, là một “Hotel California” dường như tuyệt đỉnh đẹp tươi quyến rũ, mở rộng chào đón tất cả, nhưng “We are programmed to receive. You can checkout any time you like, but you can never leave!” –“Chúng ta bị định phận được đón vào. Anh có thể trả phòng bất cứ lúc nào anh muốn, nhưng anh sẽ không bao giờ được ra đi!”

Có vẻ nhân vật Kỷ đã muốn “trả phòng” ngay từ đầu câu chuyện tiểu thuyết này: anh ta tìm học ca trù, gần gũi cái đẹp ở ngay đất phát tích cái đẹp ấy, như một lối hành hương; anh ta tự nguyện quyên góp cho một dự án “chém gió” của nhân vật Sinh để khỏi bị cuốn vào vòng danh lợi bịp bợm của gã bạn hờ này; anh ta muốn lập gia đình với người yêu cũ để được trọn vẹn sống trong tình yêu thật sự; … nhưng Kỷ đã không thể “ra đi” khỏi quãng đời thất vọng và bất an của mình. Và trong chuỗi khát khao hành động, lên tới đỉnh điểm khi tìm cứu Xuân Nương, nhân vật Kỷ có lẽ đã rơi vào một phòng trong cái “Hotel California” mà thật sự, đủ cả nghĩa đen nghĩa bóng, không thể ra khỏi nữa, trừ khi anh ta chết.

Đấy quả là một cái kết trọn, đầy âm vang, của cuốn tiểu thuyết này.

NGUYỄN CHÍ HOAN
Theo Văn Nghệ

__________
* “Hát”, tiểu thuyết, Trần Nhã Thụy, Phương Nam & Nxb Hội Nhà văn 2014.


TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐĂNG

NGUYỄN PHAN QUẾ MAI - HÃY NÓI VỀ CUỘC ĐỜI

Xe vút đi trên những con đường cao tốc, còn tôi thì ngồi đó, lặng người trong giai điệu trầm bổng của Khúc Thụy Du. Mùa hạ California nở bun...