Nhà thơ Trần Hùng
Để hóa giải mối
băn khoăn này, có lẽ, cần phải nghĩ về thơ và cái sự “làm thơ” trong quan niệm
cũng như trong thực hành của Trần Hùng theo cách khác. Thơ, với anh, không phải
là một danh từ, tức nó không chỉ/ trỏ một loại vật thể mà người ta có thể có được
bằng lao tâm sáng chế hoặc gia công tạo tác. Thơ, chính là một động từ, chỉ/ trỏ
một trạng thái sống, một hoạt động sống thường trực và tự nhiên của Trần Hùng,
tự nhiên như thở, như nghĩ, như cảm giác. (Tôi dùng cụm từ “Trần Hùng thơ”
trong nhan đề bài viết là theo nghĩa này). Mỗi bài thơ, do vậy, không phải như
một sản phẩm của nỗ lực “làm” ra, mà đơn giản chỉ như là sự định dạng hóa bằng
ngôn ngữ cho một góc, một mảnh, hoặc một khoảnh khắc hay một thời đoạn mà nhà
thơ đã “thơ” mà thôi. Chú ý
đến điều này, ta sẽ cắt nghĩa được tại sao nhiều bài thơ của Trần Hùng lại mang cái vỏ hình thức
(vỏ hình thức, tôi nhấn mạnh) của những diễn ngôn đời thường: ngắn gọn, không đều
đặn về số chữ giữa các câu, không tựa vào thể vào vần, không ngại nương vào kể vào tả, không loại trừ những
chi tiết lặt vặt thuộc về sinh hoạt nhân quần. Chúng tự nhiên như những gì
đã thực diễn ra trong một ngày thường:
“Căn phòng tập thể/ hơn mười
mét vuông/ mưa đánh đáo trên giường/ ni lông che màn một/ hai đứa trẻ mừng nhà
ướt/ đuổi nhau cười/ bố ngồi/ lặng im hút thuốc” (Ngày thường).
Không thể đơn
giản hơn, cảnh nhà nghèo mưa dột. Nhưng không đơn nghĩa. Hình ảnh ông bố
ngồi lặng im hút thuốc trong khi hai đứa trẻ đuổi nhau cười như thể mừng nhà ướt đã thực sự nói được nhiều hơn
cái nghĩa mà từ điển cung cấp cho văn bản. Sự đồng hiện hai hình ảnh trong một
khoảnh khắc đã vạch ra cùng lúc nỗi ái ngại, niềm thương cảm, sự cam chịu, những toan tính, và cả những
nung nấu quyết tâm thay đổi hoàn cảnh của người trong cuộc. Nói theo chữ
cinema, đó là nghệ thuật dựng cảnh. Và trong nghệ thuật này, Trần Hùng đã
cho thấy anh còn khá nhiều thủ pháp đắc địa. Tôi sẽ lấy thêm ví dụ bằng một đoạn
trong bài “Giao thừa”, bài thơ mà cố
thi sỹ Dương Kiều Minh từng đánh giá rất cao: “Mẹ đứng trước bàn thờ/ rồi tới
ngồi bên lửa/ để đun cho nồi nước nóng lên/ rồi lại đun cho nóng lên/ ngoài
hiên/ những bông lửa trên trời đỏ rực/ mẹ chợt nhận ra/ mình còn nhiều đứa
con/ chúng ra đi đã lâu mà không về/ sao lại như thế nhỉ?” (Giao thừa). Một loạt hành động của người mẹ được dựng nối tiếp
nhau trong đoạn thơ này: đứng, ngồi, đun nước, (rồi lại) đun nước… đã diễn
tả hết cái cảnh người già một mình
lụi cụi với tâm trạng thẫn thờ như
mê mụ, để cuối cùng ba chữ “chợt nhận ra” bùng vỡ một thảng thốt: những đứa con
của bà đã lâu không về. Sự bùng vỡ ấy được đặt trên cái nền của “những
bông lửa trên trời đỏ rực”, và đặt trong hình dung về mẹ của đứa con đang ở nơi
“xa một ngàn cây số”, vào đúng thời khắc giao thừa linh thiêng. Cho nên, chủ âm
của bài thơ không phải là tình
mẹ, mà là nỗi con, nhớ và thương quặn
thắt, và nhuốm một màu ngậm ngùi ân hận…
Trần Hùng còn
nhiều nữa những bài thơ gây được xúc
động về các mối quan hệ người và các loại tình cảm nhân tính phổ quát.
Nhưng với người viết bài này, đó vẫn
chưa là mạch chính, chưa là chủ lưu, chưa là điều đáng chú ý nhất về Trần
Hùng thơ. Chiếm vị trí ấy, có lẽ phải
là những bài thơ hiện diện như sự in dấu của những giấc mơ: “Hoa cải vàng bay
bay trên sông/ dòng sông im mơ mơ cánh đồng/ cánh đồng thơm như tóc/ nồng nàn như tóc/ râm ran mưa mưa
nước trong lưa thưa/ người đi như sương gót sương tinh khiết/ người như là cây
da mồi nảy lộc/ này quần lụa chanh này áo hoa chanh/ này ru bánh xe nan hoa
lách tách/ cay cay hương khói bến xuân” (Sương hương bay). Không cần tác giả phải
thành thật rào trước rằng “tôi chìm vào một giấc mơ và trong mơ tôi thấy…” thì những hình ảnh
xuất hiện trong bài thơ vẫn cho phép
ta nghĩ đến những hình ảnh của một giấc mơ. Hệ thống từ láy được sử dụng dày đặc ở đây (bay bay, mơ mơ, mưa mưa, cay
cay, nồng nàn, râm ran, lưa thưa, lách
tách) cùng sự áp đảo của những chữ thanh bằng đã tạo nên một giai điệu
nhịp nhàng, êm dịu như ru, những sắc
nét của cảnh cũng được mờ hóa, có xu hướng tan nhòa vào nhau để làm
thành một tổng thể mơ màng, đầy quyến
rũ. Có thể nói, bài “Sương hương bay” rất giàu nhạc tính này chính là một giấc
mơ-thơ-mùa xuân thật đẹp của Trần Hùng. Mơ, như thế, không nhất thiết là một dạng
hoạt động tinh thần chỉ diễn ra khi người ta đang ngủ. Mơ còn là cách để
nhà thơ ý thức về thực tại và
chiếm lĩnh thực tại cho riêng mình (việc này không liên quan gì đến giấc ngủ
sinh lý).
Trong những giấc mơ thơ của Trần Hùng, trăng xuất hiện
khá nhiều. Trăng không chỉ là yếu tố thuộc về khung khổ của giấc mơ, mà trăng còn được vật thể hóa,
và được hóa thân thành tâm hồn của vật thể trong sự đối ứng với con người: “Dắt
tay em vào rừng trăng/ rừng trăng thảm thiết/ hồn trăng thinh khiết/ người làm
cây trăng” (Trong vườn khuya). Chìm vào không gian trăng mơ siêu thực ấy, như được mặc khải, thi sỹ nhận thấu những sự
thật cốt lõi: “nếu em còn mơ
thấy anh/ hãy cầm sợi tóc vương
trên gối/ gieo xuống/ cây đêm sẽ mọc lên/ cây đêm cần giọt nước mắt yêu/ và vì
thế cây đêm sẽ héo” (Trong vườn
khuya). Cây đêm sẽ héo, bởi sẽ không có giọt nước mắt yêu nào giành cho nó. Đó
là sự thật, thật như định mệnh của thi sỹ là phải mang cây thập giá cô đơn suốt
cuộc đời. Cô đơn trong không gian, và cô đơn cả trong thời gian, luôn luôn một
mình sau những tuyệt vọng xóa bỏ xa lạ: “chúng mình xa nhau – một tiếng
thở dài/ chúng mình xa nhau – một đêm sâu lắm/ mơ thành hai giọt sương/ mơ thành hai viên sỏi trắng/ mơ vết thương không liền
da, mơ cánh chim ngày ẩm ướt/ mơ đêm trăng không vòm cây ẩn nấp/ mơ mùa không tên” (Trong cơn đau). Giữa cái
thế giới ấy, để trái tim thi sỹ có thể neo trú và tìm được cho mình sự
bình yên tạm thời, chỉ có một miền: đó là ký ức về nguồn, về cái ngày xưa phiếm định, về lúc mà mọi vật mọi sự vẫn
còn nguyên khối, tươi ròng.
Thơ Trần Hùng, do vậy, có thể nói,
là lớp lớp những giấc mơ của mất mát và kiếm tìm “ngày xưa”, “ngày ấy”, “ngày nào”: “Về đây/ những dấu
chân lấm láp phù sa/ nắng hanh hao vườn chè vạt mía/ qua thác cao bão nước/ niềm trinh tĩnh vỡ òa/ ngày ấy/
ve không miên man như bây giờ/ vẫn còn
khoảng trống cho tiếng gióng cửa – trâu về chuồng/ tiếng quạt muỗi của mẹ ta mỗi
tối/ tiếng của những cánh dơi/ ngày ấy
– lâu rồi” (Thời gian). Và: “Cánh bướm vàng bay bay/ phấn hoa cải vàng bay bay/
cá trăng thiêm thiếp/ ngó sen thiêm thiếp/ ai còn nhớ rõ/ những ngón tay
đồng trinh lấm bùn từ khi nào” (Cố hương). Hoặc: “Người bốc mộ đi về phía chân trời/ còn tôi với hình
hài người yêu tôi/ niềm kiêu hãnh
của tôi – cái đẹp thiên thần tới đây rồi/ bạc trắng thời gian/ nhắm mắt thờ mùa
thu ấy/ trong thịt da mơn mởn ngày
nào” (Cơn mơ).
Trần Hùng khởi
những giấc mơ thơ của mình quãng cuối những năm 1980, đầu những năm
1990, đúng vào lúc thơ Việt Nam hiện
đại, với làn sóng của những Trúc Thông, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc,
Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Linh Khiếu, Nguyễn Việt Chiến v.v… đang bắt đầu chuyển
mình, rồi tăng tốc, để xác lập một hệ hình thẩm mỹ thi ca mới. So với những
tên tuổi kể trên, Trần Hùng lặng lẽ khiêm tốn hơn, ít gây ồn ào chú ý hơn.
Nhưng dù vậy, vị tất Trần Hùng đã không hết mình trên con đường thơ mà
anh chọn, như một con đường sống?
“Chạm vào lưỡi lam/ bướm không bay nữa/ nhì nhạch giữa hoa/ nắng nhỏ màu
mười giờ” (Rã cánh). Là Trần
Hùng tự họa mình giữa thơ đấy chăng?
Tôi tin thế.
HOÀI NAM
Nguồn: Tinh Hoa Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét