Việc làm của chúng tôi là chọn ra một số nhà thơ bắt đầu
nổi lên từ đầu thế kỷ XX, tên tuổi của họ có sức ảnh hưởng đến văn học Hàn Quốc
hiện đại nói chung cùng một vài tác phẩm tiêu biểu của họ để giới thiệu đến bạn
đọc. Chúng tôi lược dịch phần giới thiệu trong tập thơ này cùng phần tiểu sử và
thơ của các nhà thơ mà chúng tôi nhận thấy là tiêu biểu nhất cho giai đoạn đầu
của thơ hiện đại Hàn Quốc như Hang, Yongun; Chu, Yohan, Yi, Shangwa; Kim,
Tonghwan; Park, Yongchol… Bênh cạnh đó chúng tôi cũng đưa thêm vào phần giới
thiệu những đoạn trích dẫn ngắn từ những bài thơ mà chúng tôi chọn dịch từ bản
tiếng Anh, để làm rõ hơn các nhận xét về phong cách thơ của từng tác giả.
Nhà nghiên cứu, dịch giả La Mai Thi Gia
Vào những năm đầu thế kỷ XX, văn chương Hàn Quốc bắt đầu
tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài trong chốn ẩn thân của mình. Trong khi văn học
truyền thống được khuyến khích phát triển chủ yếu dưới những tác động của văn
chương Trung Quốc thì ngược lại, văn học hiện đại bắt đầu hình thành với ảnh hưởng
từ nền văn học phương Tây, điều này vẫn được cho là bước ngoặc lớn trong văn học
nước Hàn. Hàn Quốc bắt đầu giao lưu trực tiếp với phương Tây, đánh dấu sự khởi
đầu của một kỷ nguyên ánh sáng, sau đó phát triển mạnh mẽ từ từ 1980 đến 1910.
Bị thúc giục bởi làn sóng cải cách chính trị và cải cách
hệ thống xã hội của thời đại, văn chương Hàn Quốc đã sẵn sàng dấn thân vào công
cuộc hiện đại hóa dưới ngọn cờ của văn học phong cách mới, bắt đầu với sự đổi mới
của Nam Son Ch’oe trong thơ và Kwangsu Yi trong văn xuôi, đó là lý do vì sao
hai nhân vật quan trọng này được xem là cha đẻ của văn chương Hàn Quốc hiện đại.
Họ đóng vai trò như là chất xúc tác trong quá trình hiện đại hóa văn học nước
Hàn. Tác phẩm của họ chú trọng nhiều hơn đến chức năng giáo huấn của văn học, họ
hướng đến việc tận dụng nghệ thuật như là một phương tiện khai sáng con người
và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Văn học Hàn Quốc nói chung và thơ ca nói riêng
vào trước những năm cuối cùng của thập kỷ 1910 vẫn chưa thực sự phá vỡ được cái
vỏ giáo huấn của mình cho đến khi các trào lưu văn học Phương Tây tràn vào Hàn
Quốc gần 1 thế kỷ sau đó.
Xét một cách chặt chẽ hơn có thể cho rằng thơ ca
Hàn Quốc hiện đại thực sự bắt đầu với Yohan Chu và Ok Kim. Không chịu sự chi phối
của thói đạo đức giả trong thơ ca kiểu mới và những tình cảm bồng bột của chủ
nghĩa lãng mạn nhạt nhẽo, Chu và Kim đã thành công trong việc tạo ra dấu ấn của
riêng mình từ những bài thơ được sáng tác theo kiểu truyền thống của những bài
balat dân gian, đây là hai nhà thơ hiện đại của Hàn Quốc đã bắt đầu tạo được
phong cách của riêng mình.
Sau thành công của Yohan Chu và Ok Kim là thành công của
hai nhà thơ Tonghwan Kim và Sowol Kim vào giữa thập kỷ 1920. Được đánh
giá là nhà thơ xuất sắc nhất của giai đoàn này, Sowo Kim đã vượt xa khỏi cái
bóng của người mà mình chịu ơn - Ok Kim - là người thầy và là người cố vấn
văn học của ông. Sowo Kim đã khẳng định được tài năng thi ca của mình bằng cách
mêu tả kết hợp giữa tình yêu xứ sở với cảm hứng bất tận về con người trong một
chuỗi những bài thơ được đánh giá rất cao của ông như Hoa đỗ quyên, Những
bông hoa trên núi và Lời cầu khấn. Ông là người
đầu tiên của giai đoạn này chú ý đến việc miêu tả thiên nhiên và cũng là người
có kiến thức sâu rộng về vấn đề này. Ông ngắm nhìn thiên nhiên không chỉ
như là trung tâm của cái đẹp mà còn như là mạch nguồn gợi ra những cảm hứng về
cuộc sống.
Bông hoa nở rộ
Trên đồi núi xa
Xuân rồi đến hạ
Và thu đi qua
Hoa kia vẫn nở
Trên đồi núi xa
(Những bông hoa trên núi - Sowo Kim)
Cùng thời với Sowol Kim có Tonghwan Kim, một nhà thơ luôn
hồi tưởng về vẻ đẹp của vùng đất đã bị mất chủ quyền. Tonghwan Kim ra đời ở
Kyongsong và học đại học Tokyo ở Nhật, suốt những năm chiến tranh ông bị đưa về
phía bắc Hàn Quốc. Khi con sông tuôn trào và Tuyết
đang rơi là những bài thơ đáng chú ý của ông trong giai đoạn này.
Và khi sông đã tuôn trào
Thuyền kia sẽ tới cập vào bến thôi
Tình yêu dịu ngọt của tôi
Cũng theo thuyền ấy nàng thời đến đây
(Khi con sông tuôn trào - Tonghwan Kim)
Yongno Pyon và Tongmyong Kim cũng là những nhà thơ mang
tâm trạng tiếc nuối quá khứ như Tonghwan Kim và cũng đã viết nên những bài thơ
có giá trị. Tuy nhiên hấu hết những bài thơ ra đời trong thời kỳ này đều có hạn
chế về đề tài và lĩnh vực thể hiện, đa số đều tập trung nói về tình cảm.
Tongmyong Kim ra đời ở Kangnung và đến học viện Aoyama của Nhật để học thần học.
Sự nghiệp của ông trải rộng ở nhiều lĩnh vực như nhà giáo, người biên tập báo
chí và là thành viên của quốc hội. Dưới những luật lệ thống trị của Nhật Bản,
ông đã bỏ về nông thôn và ở đây ông đã viết trong một nỗi nhớ da diết về vẻ đẹp
của đất nước trước khi chúng bị kẻ tàn bạo dày xéo. Tác phẩm tiêu biểu của ông
bao gồm Đàn lia của tôi (1930), Cây chuối (1938), Chứng
nhân (1955) và Tâm trí tôi(1964)…
Tâm trí tôi là một chiếc lá rơi
Hãy cho chiếc lá tôi nằm lại trong vườn em một khắc
Rồi tôi sẽ từ giã em ra đi trong lặng thầm đơn độc
Khi thêm một lần gió lại thổi lên
(Tâm trí tôi - Tongmyong Kim)
Vào những năm về sau của thập kỷ 1920, Shangwa Yi và
Yong’un Han đã mang lại sức vóc mới cho thi ca Hàn Quốc bằng sự hợp nhất vào
trong thơ chiều sâu siêu hình và cái nhìn thấu đáo vào ý thức con người. Ra đời
ở Taegu, Shangwa Yi học tiếng Pháp tại trường đại học dành cho người nước ngoài
ở Tokyo, Nhật Bản. Thơ của ông tiêu biểu cho xu hướng lãng mạn của thế kỷ
20. Nếu không kể đến việc dấn thân của Yi vào bên trong sự tăm tối hão huyền của
nhục thể và nỗi sầu muộn chán chường thì rõ ràng chính Yi là một nhà thơ hiếm
hoi đã biết cách thể hiện được rõ ràng những quan niệm của mình:
Trăng khuya còn mỏng mảnh
Trong như là sợi tơ
Gió bắt đầu lay động
Và dường như bất ngờ
Mùa xuân đang rơi xuống
Từ các vì sao đêm
(Mưa mùa xuân - Shangwa Yi)
Sinh ra ở Hongsong, thuộc tỉnh Chungchong, từ nhỏ đã dành
trọn đời mình cho đức phật, Yong’un Han là một trong 33 thành viên ký vào bản
tuyên ngôn lịch sử công nhận quyền độc lập tự chủ của Hàn Quốc dưới sự kiểm
soát thuộc địa của Nhật Bản vào năm 1919. Bản thân là một tu sĩ và cũng là một
nhà yêu nước, tên tuổi của Yong’un Han đã trở nên bất tử với một chuỗi những
bài thơ tiếng tăm của ông trong tập Sự im lặng của tình yêu (1925),
nó là hiện thân của sự phức tạp siêu hình và những nghịch lý trong thân phận
con người, theo ông các thể thức của đạo phật cũng chẳng khác gì sự thể hiện của
thơ ca. Theo phật giáo bản thể và khách thể có thể được chuyển hóa cho nhau, chỉ
cần giữa chúng có tồn tại nghiệp chướng, và cùng với sự lạc mất của mối lương
duyên nghiệp chướng thì bản thể và khách thể sẽ cùng diệt vong tại một thời điểm:
Lời thề tình yêu đôi lứa
Tưởng rằng còn mãi muôn đời
Như đóa hoa vàng bất tử
Nay còn là đống tàn tro
Ngọn gió nào mang đi xa
…………
Khi loài người biết yêu nhau
Trong
em đã nhiều lo sợ
Sợ rằng
ta sẽ chia xa
Vào
ngay khi ta gặp gỡ
Cách
ngăn đến thật bất ngờ
Tim
em thành trăm mảnh vỡ
(Sự im lặng của tình yêu - Yong’un Han)
Vào năm
1910, sau gần 1 thập kỷ đánh mất chính mình, Hàn Quốc bắt đầu đứng lên chống lại
những luật lệ thuộc địa hà khắc của Nhật, tuy nhiên phong trào độc lập lại mau
chóng bị dập tắt bởi bàn tay tàn bạo của kẻ áp bức. Sự thức tỉnh về ý thức dân
tộc vừa mới nhen nhóm lại gặp ngay cảm giác về sự mất mát và thất vọng quá mạnh
mẽ, và điều này lại mau chóng dìm dân tộc vào lại trong thời kỳ đen tối. Trong
màn sương ảm đạm ấy, ý nghĩ thịnh hành của thuyết chủ bại đã đem đến lối thoát
cho tâm trạng vỡ mộng và chủ nghĩa bi quan. Đồng thời, giữa cơn lốc hỗn loạn và
điêu tàn ấy đã nổi lên một nhóm các nhà thơ cộng sản phương đông, những người
đã nhận ra rằng nghệ thuật chỉ là phương tiện đấu tranh chống lại kẻ áp bức.
Tuy nhiên những tác phẩm của họ cũng đạt phần nào đạt được những tiêu chuẩn nghệ
thuật thẩm mỹ. Giữa không khí xã hội đó, nhà thơ Shanghwa Yi đã rất thành công
trong việc diễn đạt về nỗi buồn đau của một quốc gia đang bị đàn áp trong bài
thơ Có phải mùa xuân về trên vùng đất đã bị mất đi in trong tập Sanghwa
và Sowol (1951).
Có phải
mùa xuân đã về trên mảnh đất này không?
Mảnh
đất không còn là của chúng tôi
Mảnh
đất mà người ta chiếm mất?
Đắm
mình trong ánh mặt trời, tôi đi như thể trong một giấc mơ
Dọc
theo con đường nhỏ xuyên qua bao đồng lúa như mái tóc xõa tung
Nơi
mà bầu trời xanh và những cánh đồng xanh đang hòa quyện vào nhau.
Đến trước
đầu những năm 1930, trái tim rộng mở quá mức và tính đa cảm ốm yếu đã dần dần
lùi xa bởi sự xuất hiện của thuyết duy lí cùng với những tiếng nói mạnh mẽ của
các nhà thơ cộng sản phê phán quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Yongnang Kim,
Chiyong Chong và Sok-Chong Shin là những nhà thơ trong số các nhà thơ cuối cùng
của giai đoạn này.
Yongchol
Park thì lại có sở trường ở việc nêu ra lý luận sáng tác hơn là những tác phẩm
văn chương thực thụ. Khi đề cập đến bài thơ Tàu đang cập bến Park
có vẻ thích thú với danh hiệu của một nhà phê bình giỏi hơn là một nhà thơ hay.
Ông chú ý một cách nghiêm túc đến những thể thức và tính nhạc của ngôn ngữ.
Sinh ở
Kanglin, đến học tiếng Anh tại học viện Aoyama Nhật bản, Yongnag Kim thì lại rất
thành công trong việc tạo tác giấc mộng – như một bầu khí quyển xuyên qua sự
hòa âm giữa cảm giác và âm thanh. Ông quan niệm một cách nghiêm túc rằng
thơ ca là một loại hình nghệ thuật biểu hiện cái đẹp của kinh nghiệm. Từ những
bài thơ của ông, ngôn ngữ Hàn Quốc dường như được khoác lên vẻ đẹp mới, tao nhã
và tinh tế:
Này
tôi ước mộng vời xa
Đã
tan thành bụi theo hoa còn gì
Rồi
khi hoa đã ra đi
Là
khi tôi chẳng còn gì tháng năm
(Đến khi mẫu đơn khai hoa - Yongnag Kim)
Ở một
phương diện khác, thơ Chiyong Chong đã khắc nên được bức tranh truyền thống nổi
bật kết hợp với những nét vẽ hiện đại của phương Tây. Sinh ra ở Okchon, Chong học
văn học Anh ở đại học Tojisha – Nhật Bản. Suốt trong thế chiến thứ 2 ông dạy học
tại một trường trung học và sau chiến tranh ông là giáo sư tiếng Anh tại trường
đại học nữ Ehwa. Ông bị buộc phải về miền Bắc Hàn Quốc suốt chiến tranh Hàn Quốc
(1950 – 1953). Là một trong những nhà thơ gây ảnh hưởng nhất thế kỷ 20, ông
mang những hình ảnh hiện đại và mạnh mẽ hòa trộn với tình yêu bản xứ vào trong
thơ Hàn. Tác phẩm chính của ông là Tuyển tập thơ (1935), Hồ
Paeknok (1941) và Tinh tuyển thơ (1946).
Qua vùng sa
mạc gió bay
Trong lò lửa tắt phủ đầy bụi than
Gối đầu lên cuộn rơm vàng
Cha tôi chợp mắt mơ màng giấc trưa
Dầu trong những giấc mơ đêm
Làm sao tôi có thể quên chốn này?
(Vọng cố hương - Chiyong Chong)
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn chương ở
Puan, Sokchong Shin theo cha mẹ chuyển đến một ngôi làng hẻo lánh ở vùng nông
thôn, nơi đây ông đã trải qua thời thơ ấu không có dấu ấn cai trị của đế quốc
Nhật. Gia đình ông trải qua một giai đoạn kiệt quệ, nhưng ông lại có được những
nhận thức phong phú về thiên nhiên đang bao bọc xung quanh. Đó là lý do vì sao
mà Sokchong Shin lại được nhắc đến như một nhà thơ đồng quê. Tập thơ đầu
tiên Ánh sáng ngọn nến của ông đã đưa ông lên vị trí như là một
nhà thơ của nơi thôn dã.
Chỉ cần
em gọi
Là
tôi về đây
Như
dòng suối mát
Lượn
theo gió bay
Về xa
tít tắp
Chân
trời xuân phai
(Chỉ cần em gọi - Sokchong Shin)
Nhìn
chung, qua một vài bài thơ hiện đại Hàn Quốc vào những năm đầu thế kỷ XX, có thể
thấy rằng chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Hàn Quốc không phải là sự sao chép
chính xác từ nguyên mẫu phương Tây. Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, mọi
sự so sánh về văn học Hàn Quốc cần phải được đặt trong bối cảnh văn hóa của đất
nước. Sự thật là các nhà thơ Hàn Quốc cũng hướng về cái tôi cá nhân và đề cao đời
sống cảm xúc riêng tư như những nhà thơ của các nước phương Tây. Tuy nhiên quan
niệm lãng mạn về sự hợp nhất giữa con người với tự nhiên lại được các nhà thơ
Hàn thêm vào đó một chút dư vị cay đắng xót xa của nỗi ưu tư sầu muộn do tinh
thần thời đại tạo nên.
LA MAI THI GIA
Nguồn: NVTPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét