Nhà văn Trần Thanh Giao
Và may mắn hơn nữa là tôi được trở thành học viên chính
thức của lớp bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ khoá 2 do Hội Nhà văn Thành phố Hồ
Chí Minh tổ chức từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 12 năm 1982 tại Hội trường số 62
đường Trần Quốc Thảo, quận 3. Nói may mắn vì giữa những ngày chiến trận, được
trở về phía sau đã là hạnh phúc, nếu không nói là hạnh phúc tuyệt vời, lại được
bồi dưỡng viết văn, được nghe truyền thụ kinh nghiệm nghề nghiệp từ bao nhiêu bậc
văn tài đi trước. Những Sơn Nam, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Vũ Hạnh, Nguyễn
Khải, Anh Đức, Viễn Phương, Giang Nam, Vũ Thị Thường, Trần Thanh Địch, Lê Đình
Kỵ, Hoàng Thiệu Khang, Hoàng Nhân, Phùng Quí Nhâm, Diệp Minh Tuyền, Nguyễn Duy và
nhiều người khác nữa.
Người tổ chức những buổi chuyện trò văn nghệ và văn...
nghề đó trong thời gian 2 tháng không ai khác hơn là nhà văn Trần Thanh Giao, với
sự trợ giúp hết sức đắc lực của nhà văn Thanh Giang và nhà văn mới nổi Hiền
Phương. Như một bài giảng mà ông đảm nhiệm trong chương trình, gần như là bài mở
đầu cho quá trình bồi dưỡng về nền văn học mới, sau khi đã dành hơn một tuần
nhìn lại nền văn hoá văn nghệ thực dân mới của Sài Gòn trước tháng 4.1975 do
nhà văn Vũ Hạnh và nhà nghiên cứu Trần Trọng Đăng Đàn hướng dẫn, bài Bồi dưỡng vốn sống và vốn viết,
nhà văn Trần Thanh Giao đã như tự bộc lộ mình, hay nói đúng ra là ông tự mở
lòng ra để trao đổi cùng những cây bút ít nhiều đã từng có bài, có sách in ở
Sài Gòn trước năm 1975.
Những học viên khoá 2 của Trại sáng tác và bồi dưỡng Lực
lượng viết văn trẻ Thành phố Hồ Chí Minh ngoài những cây bút mới của thành phố
như Trần Thanh Tâm, Nguyễn Xuân Châu, Phan Thị Hà, Hoàng Thị Thọ..., còn có
Khôi Vũ (hồi viết cho Tuổi Hoa - tờ báo dành cho
tuổi học trò, toà soạn ở 28B Kỳ Đồng, quận 3, ký tên là Nguyễn Thái Hải), Đàm
Chu Văn, Phạm Thanh Quang ở Đồng Nai, Từ Nguyên Thạch ở Sông Bé, một số cây bút
của Long An, Tiền Giang và Vĩnh Long có... Phạm Trung Khâu.
Tôi không thể nào quên lời dặn dò của ông dành cho học
viên lớp bồi dưỡng viết văn là phải tăng cường vốn văn hoá của bản thân người
viết bằng việc lùng sục vào kho tàng văn hoá nghệ thuật của dân tộc và nhân loại.
Để làm được việc đó, người sáng tác cần phải tập cho mình thói quen đọc sách
báo và làm tư liệu, phải có chương trình tự học cá nhân thật nghiêm túc và cái
cần kíp không kém phần quan trọng là phải có trình độ ngoại ngữ để có thể đọc
trực tiếp được một số tác phẩm nước ngoài phổ biến. Một lời dặn dò ngỡ như rất
cố điển, rất xưa cũ, rất sáo mòn, ấy thế mà đến nay, ngẫm lại tôi thấy nó còn
nguyên giá trị và cực kỳ thời thượng. Để có được lời dặn dò tâm huyết ấy, tôi
nghĩ ông cũng đã trải qua và trải nghiệm bằng chính cuộc đời viết văn của mình.
Lúc mới về Hội Nhà văn Thành phố, tôi cứ nghĩ ông là một
nhà báo chuyển qua làm nhà văn, vì thành phố đang cần những con người như thế,
những con người có bản lĩnh chính trị vững vàng và một cái phông văn hoá tương
đối ổn.
Thật ra không như vậy. So về tuổi đời thì ông trẻ hơn nhà
văn Nguyễn Quang Sáng 5 tháng tuổi, vào nghề viết văn, làm báo sau ông Sáng đôi
ba năm, nhưng bù lại ông có thời làm báo kháng chiến chống Pháp trong chiến khu
(dù chỉ là thầy cò), rồi làm thợ nhà in báo Nhân dân (sau
tập kết 1954), sau đó thành phóng viên báo Nhân dân,
chuyên viên chăm lo lực lượng sáng tác văn học của Tổng Liên đoàn Lao động,
biên tập viên Nhà xuất bản Lao động rồi lại làm phóng viên báo Thống nhất,
báo Giải phóng rồi báo Đại đoàn kếttrước
khi về Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Chính những năm tháng ở miền Bắc, trải
qua nhiều công việc tiếp xúc với chữ nghĩa, đã làm cho ông, một cây bút gốc Nam
Bộ, mà chính tả và ngữ pháp rất chỉn chu.
Khi tôi chuyển ngành về công tác tại Hội Nhà văn Thành phố
tháng 11.1988 thì ông đang làm thủ tục bàn giao chức Giám đốc Trại Sáng tác và
bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ cho nhà văn Thanh Giang, còn ông chuyển sang
làm Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn, cũng của Hội Nhà văn. Được một
thời gian làm phó cho nhà văn Anh Đức, theo lời mời của Giám đốc Sở Tư pháp
Thành phố Hồ Chí Minh đầu năm 1990, ông chuyển về tham gia tờ tin Pháp luật
Thành phố Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho việc ra mắt với công chúng rộng rãi bằng
một măng-sét mới: báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Bằng vào sự tín nhiệm của các hội viên, nhà văn Trần
Thanh Giao đã 5 lần liên tục là thành viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Thành phố,
từ khoá 1 đến khoá 5, nghĩa là gần 30 năm tham gia công tác trong ban lãnh đạo
của Hội, với nhiều cương vị và chức vụ khác nhau, từ Thư ký thường trực, đến Uỷ
viên Ban Thư ký, Uỷ viên Ban Thường vụ hay chỉ là Uỷ viên thường. Dù ở cương vị
hay chức trách nào, đối với ông việc tổ chức bồi dưỡng lực lượng sáng tác trẻ
và tổ chức đi thực tế cho nhà văn vẫn là công việc ông quan tâm hàng đầu.
Đến những năm trước 2010, dù đã xấp xỉ lứa tuổi 80, nhà
văn vẫn tích cực tham gia các chuyến đi thực tế của các nhà văn thành phố đến
những địa bàn lân cận như Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, không chỉ với tư cách
là thành viên, mà nhiều khi là người tổ chức.
Con người sinh ra ở quận Ô Môn, Cần Thơ, tuổi thơ lớn lên
ở Sài Gòn, rồi về lại quê nhà đi học trung học trước khi thoát ly vào chiến khu
năm 1950 sau sự kiện học sinh Trần Văn Ơn. Con người từ một cậu học sinh tham
gia kháng chiến, rồi làm công nhân trực tiếp, và bằng nỗ lực tự học của mình dần
trở thành một người trí thức - một trí thức có bản lĩnh - không phải là chuyện
đùa. Càng không là chuyện đùa khi ông đã xem việc chăm sóc, ươm mầm cho những
búp măng văn học trở thành những cây tre văn học, đứng sừng sững giữa trời
thành phố phương Nam, góp bóng mát cho đời bằng những tác phẩm của chính mình.
Nhà văn Trần Thanh Giao cùng đoàn nhà văn TP.HCM
đi thực tế sáng tác ở Phan Thiết, Bình Thuận tháng
9.2015
Có thể nói không ngoa rằng, có một thế hệ nhà văn, nhà
thơ Thành phố Hồ Chí Minh, thế hệ mà người viết thành phố thường ví von là thế
hệ vàng, hầu như đều đã trải qua những lớp bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ do
Hội Nhà văn Thành phố tổ chức từ những ngày đầu thành lập Hội năm 1981. Tiền đề
của thế hệ vàng nầy, thực ra là từ một cuộc vận động sáng tác do Thành đoàn phối
hợp với Hội Văn nghệ Thành phố tổ chức, mà người đăng cai là báo Tuổi Trẻ nhân
kỷ niệm 50 năm thành lập Đoàn. Thông qua cuộc vận động sáng tác nầy, hàng loạt
cây bút nhiều tiềm năng được phát hiện, và hầu như họ trở thành học viên viết
văn của thầy quản lý Trần Thanh Giao. Một số người không học được khoá 1
(1981), thì học khoá 2 (1982) và những khoá sau đó nữa. Mãi đến khi biên chế của
Trại bồi dưỡng không còn và kinh phí tổ chức ngày càng ít đi, thì Trại bồi dưỡng
đã bị khai tử một cách... tự nhiên với không ít ngỡ ngàng. Một nghịch lý không
lấy gì làm vui của thành phố không ngừng chuyển động và phát triển nầy, là khi
nghèo thiếu thì kinh phí dành cho văn học lại giàu mà khi giàu thì kinh phí
dành cho hoạt động văn học lại nghèo thấy rõ.
Kể từ truyện ngắn Thăm nhà đăng
trên báo Thống nhất năm 1958 chàng thợ nhà in đã
mon men đặt chân vào làng văn học, nhưng chính truyện ngắn Câu chuyện một chiều thứbảy (tác
phẩm được trao đồng giải nhì (không có giải nhất) trên báo Thống nhất năm
1959) mới là tấm giấy thông hành đưa ông bước vào làng văn, làng báo. Hơn 50
năm cầm bút, hay nói đúng hơn là 50 năm miệt mài đọc-đi-ghi-viết, và đặc biệt
là bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ, ông đã đóng góp cho đời sống văn học nước
nhà hơn 15 tập sách in riêng gồm các tập truyện ngắn, bút ký, tiểu thuyết, truyện
và ký, phê bình tiểu luận và nghiên cứu khảo luận. Đặc biệt tiểu thuyết Đất mới vỡ,
do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 1978 và tái bản năm 1981 với số lượng hàng vạn
bản in là một đóng góp không nhỏ của ông trong quá trình cải tạo và xây dựng
thành phố mới sau giải phóng. Câu chuyện viết về giới tiểu thương thành thị đi
kinh tế mới với bao nỗi ngổn ngang, có sức lay động lớn lao trong lòng người đọc,
và tuy không nhiều trang viết nhưng đậm chất tính dục và nhân văn - một điều hiếm
thấy trong dòng văn học thời mới giải phóng.
Một thời đang dở là
cuốn tiểu thuyết do Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm
1987, tái bản năm 1992, dưới thời Tổng biên tập Hà Mâu Nhai là một câu chuyện
khác. Đó là câu chuyện về sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình xây dựng đất nước
theo kiểu cũ, bởi nó quá lạc hậu và trái tự nhiên, phải đổi mới để tồn tại và
phát triển. Chính từ nhiều năm tháng thực tế ở Cần Giờ, một huyện miền duyên hải
nghèo nằm ngay cạnh thành phố đang chuyển động đổi mới tích cực đã là nguồn cảm
hứng sáng tạo cho nhà văn nêu lên quan điểm cần thay đổi của mình. Có thể nói sự
chuyển mình của văn học thời kỳ cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 không chỉ
có Một thời dang dở, mà còn có Cù lao tràm của
Nguyễn Mạnh Tuấn, Ông Hai Cũ của Trần
Bạch Đằng, và những truyện ngắn đăng thường xuyên trên báo Văn nghệ thời
Tổng biên tập Nguyên Ngọc.
Là người có nhiều năm tháng chăm lo lực lượng viết văn trẻ,
nhà văn đã bước qua tuổi bát tuần Trần Thanh Giao vẫn đau đáu nỗi lo là mong
các cây bút trẻ mạnh dạn vượt lên chính mình để nâng cao tầm tư tưởng cho tác
phẩm của mình. Đừng chạy theo sự yêu thích của số đông, bởi cái số đông đó nhiều
khi chỉ là những đánh giá theo thói quen, theo cảm tính xưa cũ, không thúc đẩy
sự phát triển. Theo ông, người viết trẻ nếu có ý tưởng hay, mới, khác mọi người
thì phải biết cách đưa nó ra, thậm chí là từng bước, để mọi người biết và chấp
nhận. Phải thường xuyên đọc và học là lời khuyên chân tình nhất mà ông dành cho
bạn viết trẻ, và đó cũng là những điều ông gặt hái được sau hơn 50 năm cầm bút
của mình.
PHẠM SỸ SÁU
Nguồn: NVTPHCM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét