Lĩnh vực để lại nhiều dấu ấn nhất của Thẩm Thệ Hà
chính là văn xuôi và những tác phẩm có giá trị nhất tập trung chủ yếu trong
giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn 1945 - 1954, ông sáng tác tổng
cộng 3 bộ tiểu thuyết: Vó ngựa cầu thu, Gió biên thùy, Người yêu
nước.
Nhà văn Thẩm Thệ Hà
1. Tiểu sử tác giả
Tác gia Thẩm Thệ Hà tên thật là Tạ Thành Kỉnh, sinh ngày
9/3/1923 tại làng Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh. Cha ông là Tạ Thành Tàu,
mẹ là Nguyễn Thị Tám. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu. Thẩm Thệ Hà học
tiểu học ở Trảng Bàng, trung học ở Sài Gòn, đỗ tú tài Pháp và lập gia đình năm
22 tuổi. Ông tham gia Cách mạng từ 1945, hoạt động trong Ban điệp báo Sài Gòn -
Chợ Lớn - Gia Định. Năm 1949, cùng với Vũ Anh Khanh (1926 - 1956) thành lập nhà
xuất bản Tân Việt Nam. Từ 1952, để kiếm sống và hoạt động trong vùng tạm chiếm,
Thẩm Thệ Hà dạy Việt văn ở các trường trung học Nguyễn Văn Khuê, Chi Lăng, Tân
Thanh, Đặng Văn Trước, Đức Trí, Dân Trí, Trần Hưng Đạo. Năm 1966, cùng với Tô
Nguyệt Đình (1920 - 1988) thành lập nhà xuất bản Lá Dâu. Hai nhà xuất bản Tân
Việt Nam và Lá Dâu đã in được nhiều tác phẩm văn chương có khuynh hướng đấu
tranh cách mạng.
Trước 1975, Thẩm Thệ Hà từng viết bài cộng tác và biên tập
các báo và tạp chí Văn hóa, Việt bút, Đại chúng, Lẽ
sống, Tiếng chuông, Tin sớm, Ánh sáng, Dân
tộc, Tin lửa, Nhân loại, Tiểu thuyết thứ bảy;
phụ trách mục “Phê bình sách mới” và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ
thông (1958 - 1965) của Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) giới thiệu cả những
tác giả miền Bắc đương thời như Huy Cận, Thanh Tịnh, Ngân Giang, Yến Lan, Lưu
Trọng Lư. Sau 1975, ông cộng tác với các báo và tạp chí Văn, Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Bách khoa văn học, Sân khấu, Sài
Gòn giải phóng thứ bảy, Giác ngộ. Ông là hội viên Hội Nhà văn
TP. Hồ Chí Minh khóa đầu tiên và hội viên Hội Văn nghệ Tây Ninh. Qua một thời
gian đau yếu, ông mất ngày 20/6/2009 tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 88 tuổi.
2. Sự nghiệp văn chương
Nghiệm sinh trên cõi đời 88 năm tuổi trời và 63 năm tuổi
văn, Thẩm Thệ Hà đã để lại hàng chục tác phẩm dài ngắn khác nhau, bao gồm nhiều
bộ môn chuyên ngành, nhiều thể loại và thể tài, nhiều hình thức và phương thức
sáng tác. Trên thực tế, số lượng tác phẩm của Thẩm Thệ Hà phân chia theo thể loại
có 7 tiểu thuyết (1 tiểu thuyết còn ở dạng bản thảo), 14 truyện ngắn, 14 truyện
viết cho thiếu nhi, 2 vở kịch, 2 tập thơ (di cảo), 3 tác phẩm dịch, 2 tập khảo
cứu, 5 bộ sách giáo khoa, 1 tập hồi ký, nhiều bài phê bình văn học đăng báo…
Thẩm Thệ Hà đến với văn chương khi còn học trung học. Năm
1937, với bút hiệu Thành Kỉnh, ông đã có thơ đăng trên Phổ thông bán
nguyệt san ở Hà Nội và các báo ở Sài Gòn như Đồng trinh, Chúa
nhật, Thanh niên, Điện tín. Các bài thơ được độc giả
biết đến và mang lại chút tiếng tăm cho tác giả như Trịnh Đán, Rồi
mỗi chiều xuân, Dòng mơ chung thủy, Xuân thanh sắc,…
Sau Cách mạng tháng Tám có các bài Trời nổi phong yên, Việt
Nam mến yêu, Tống biệt hành, Khóe mắt u hoài, Trường
thành sông Đua,… Thơ của ông được tập hợp thành hai tập chưa xuất bản
là Thâm thúy (Thơ trước 1945) và Trời nổi phong yên (Thơ
sau 1945). Về văn xuôi có các bộ Vó ngựa cầu thu (Tân
Việt - 1949), Gió biên thùy (Tân Việt
- 1949), Người yêu nước (Tân Việt Nam
- 1949), Đời tươi thắm (Lá Dâu - 1956), Hoa trinh nữ (Sống
mới - 1957), Bạc áo hào hoa (Miền Nam - 1969), Tủi phấn
thẹn hồng (bản thảo chưa in),…; các truyện ngắn Nàng Phượng
tóc thề (1960), Ai nghe lòng đất quặn đau (1961), Tình
yêu và lý tưởng (1989), Thằng đưa đám (1990), Lửa
tình (1991), Nhan sắc tàn phai (1991), Cánh hồng
lưu luyến (1993), Duyên dáng Quỳnh Như (1994), Tổ
ấm chim bay (1994), Thanh mai trúc mã (1994), Nhà
sư dị thường (1996),…; truyện viết cho thiếu nhi Bài học
thương nhau, Con chim xanh, Tàn giấc mơ tiên, Tiểu
anh hùng, Thần điểu và hoa hồng, Thiên tài lạc lối, Nhân
ngư công chúa, Ngọc tuyền thảm sử,…; biên khảo Việt Nam
trên đường cách mạng tân văn hóa (1949); dịch tiểu thuyết Con
đường cứu nước(Maroussia của P. J. Satahn, Nam Việt - 1947) và Mũi
tên đen (The Black Arrow của S. L. Stevenson, Sống mới - 1965).
Với những đóng góp quan trọng cho văn học và Cách mạng giải
phóng dân tộc, Thẩm Thệ Hà được ghi nhận là “một nghệ sĩ đa năng” (Hoàng Tấn,
trong Thanh Việt Thanh: Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.12), “Một cấy bút khả kính” (Trần Hữu Tá, Một
cây bút khả kính, Tuổi trẻ chủ nhật, số 9 - 2003, ra ngày 9 - 3
- 2003, tr. 24), tác phẩm của ông có mặt trong một số chuyên luận và tuyển tập
như Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Thi ca
Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, Thơ mùa giải phóng (Nxb
Sống chung), Văn chương tranh đấu miền Nam của Nguyễn Văn
Sâm, Tuyển tập thơ, truyện ngắn Thành phố Hồ Chí Minh (Kỉ niệm
300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh), Thẩm Thệ Hà - thân thế và sự
nghiệp của Thanh Việt Thanh, Nhìn lại một chặng đường văn học của
Trần Hữu Tá, Từ điển Văn học (bộ mới) của nhiều tác giả, Văn
học nơi miền đất mới của Nguyễn Q. Thắng,… Điều đó cho thấy tác giả xứng
đáng có một chỗ đứng trong lịch sử văn học, đặc biệt là văn học Nam Bộ.
Lĩnh vực để lại nhiều dấu ấn nhất của Thẩm Thệ Hà chính
là văn xuôi và những tác phẩm có giá trị nhất tập trung chủ yếu trong giai đoạn
kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn 1945 - 1954, ông sáng tác tổng cộng 3 bộ
tiểu thuyết: Vó ngựa cầu thu, Gió biên thùy, Người yêu
nước. Ba bộ tiểu thuyết này đều được xuất bản năm 1949. Tiểu thuyết Thẩm Thệ
Hà sở dĩ được hoan nghênh vì “chủ đề rất tập trung, nhất quán: sự trăn trở và động
viên nhau tìm đến với lý tưởng cứu quốc của thế hệ thanh niên trong một bối cảnh
không gian xác định (miền Nam Việt Nam) và trong một thời gian cụ thể (Những
năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 và những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống
Pháp)”1.
Vó ngựa cầu thu là một trong những tiểu thuyết
biểu của Thẩm Thệ Hà viết về những năm trước Cách mạng tháng Tám. Sơn sinh ra
trong một gia đình trưởng giả và sớm có tư tưởng cách mạng. Chàng từng theo một
chiến sĩ Quốc dân đảng sang Trung Quốc và học Trường võ bị Hoàng Phố. Sơn xót
xa vì những nghĩa sĩ của phong trào phải lên đoạn đầu đài. Từ nước ngoài, chàng
và những người đồng chí nhận thấy các quan niệm quốc gia cổ truyền của ta không
còn hợp nữa. Sơn và người đồng chí tên là Thái vượt biên giới về nước gây cơ sở
phong trào trong nước.
Sơn và Thái tạm chia tay nhau vì Thái có việc riêng gia
đình. Trên đường đi, Sơn tình cờ ngụ trong nhà của một cụ già yêu nước muốn lập
lại chế độ phong kiến. Cụ từng có liên hệ với các sĩ phu trong phong trào Cần
vương. Sống với cụ có hai người cháu là Phương Lan và Phượng Nhi. Phương Lan -
người cháu lớn, nết na xinh đẹp chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần phục cổ của cụ.
Ba tháng sống trong không khí thân tình, đùm bọc của ba ông cháu nhà chí sĩ,
Sơn có cơ hội hướng tâm hồn Phương Lan theo cách suy nghĩ và hành động phù hợp
với tình hình hiện tại của đất nước. Tình yêu bắt đầu nảy nở giữa Sơn và Lan.
Thế nhưng, vì đất nước, Sơn phải chia tay ông cháu Phương Lan để cùng Thái thi
hành nhiệm vụ bí mật.
Trên đường lên Bắc Sơn, Sơn và Thái bị bắt giam. Họ đang
tìm cách vượt ngục thì có người đến cứu thoát. Trên đường chạy trốn Sơn tự nghĩ
mình đừng nên mơ tưởng về Phương Lan nữa. Nhưng không ngờ, chính Phương Lan là
người cứu sống chàng và Thái, sau đó nàng bị truy đuổi và hi sinh. Phương Lan
đã giác ngộ theo con đường của Sơn. Trước khi nhắm mắt trong vòng tay của Sơn,
Phương Lan đã xúc động “từ ngày nghe được lời anh em đã giác ngộ. Em đã theo
hai anh từng bước, tiếc thay em không phải là một chiến sĩ có tài... Chết vì
nghĩa vụ là danh dự của người chiến sĩ, được chết trên tay anh là diễm phúc của
em rồi”.
Nội dung Vó ngựa cầu thu cho thấy dự đồ
sáng tạo của tác giả: viết về những con người trẻ tuổi đi theo cách mạng. Không
khí truyện khiến chúng ta nghĩ đến phong trào khởi nghĩa Yên Bái. Tiếng vọng của
cuộc khởi nghĩa Yên Bái cùng sự hi sinh của các nhà cách mạng có tác động ít
nhiều đến ngòi bút Thẩm Thệ Hà. Thế nhưng, về mặt hình tượng văn chương, Sơn và
Thái là sự tiếp nối các hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn: có nhiều sự đồng cảm với nhân dân, sẵn sàng quăng mình vào gió bụi.
Tuy vậy, khác với các nhân vật Dũng, Thái, Tạo trong tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn, các nhân vật của Thẩm Thệ Hà đã có những ý hướng, lý tưởng cụ thể trong
hành động. Nổi bật trong Vó ngựa cầu thu chính là mối tình giữa
Sơn và Lan. Tình yêu của họ được ngòi bút tác giả thể hiện theo kiểu tình yêu
trong các cuốn tiểu thuyết theo khuynh hướng lãng mạn, có kết thúc buồn. Hình ảnh
Sơn và Lan đi chơi Tùng Lâm rồi suối Ngọc Tuyền đã là một dự cảm buồn cho kết cục
một cuộc tình. Cốt truyện Vó ngựa cầu thu nhẹ nhàng, không phức
tạp, ít có những xung đột. Tác giả tỏ ra khéo léo trong việc mô tả tâm trạng của
Sơn và Lan, những cung bậc tình cảm của hai người đang yêu trong một không gian
truyện cổ kính.
Nếu Vó ngựa cầu thu viết về những năm
trước Cách mạng tháng Tám thì Người yêu nước viết về không khí
của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Người yêu nước viết
về những trí thức trên đường đến với cách mạng. Ngay lời phi lộ, tác giả đã cho
biết mình chủ trương viết theo khuynh hướng “Văn chương tranh đấu”. Viết về những
trí thức thành thị hẳn Thẩm Thệ Hà có nhiều thuận lợi. Công việc dạy học và
sinh hoạt ở thành thị đã cung cấp cho ông những trải nghiệm quý báu khi viết về
những con người này. Vũ, nhân vật chính của truyện, sinh ra trong gia đình giàu
có, thích đọc sách tư tưởng và làm thơ, con quan tri phủ. Phượng, người bạn gái
của Vũ, xinh đẹp, từ thuở nhỏ đã say mê nghệ thuật. Bão, sinh ra trong gia đình
nghèo khó và là bạn học của Vũ. Từ khi chia tay Vũ ở trường học, Bão giác ngộ
và đi theo cách mạng nhờ sự hướng đạo của giáo sư T và các bạn trong tù. Họ gặp
lại nhau trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bão bị bắt và tạm giam nơi dinh thự của
quan tri phủ. Cuộc gặp gỡ nơi hầm tối nhà giam đã làm thay đổi cuộc đời của Vũ.
Những cuộc tiếp xúc với Bão đã làm chàng hiểu được vẻ đẹp của lý tưởng cách mạng.
Từ một người sống mộng mơ, làm thơ ủy mị và ít có mối liên hệ với quần chúng,
Vũ từ bỏ gia đình và cuộc sống sung túc để bước vào con đường hoạt động cách mạng.
Hành động cao đẹp và tình yêu trong sáng của Vũ đã giác ngộ Phượng đi theo lý
tưởng cách mạng. Và cũng chính cô đã giác ngộ cho cha mình con đường đấu tranh
để giải phóng dân tộc. Phượng trở thành cán bộ chỉ huy lực lượng vũ trang cách
mạng bên cạnh Vũ và Bão. Trong một trận đánh, cô bị bắt giam nhưng vẫn giữ vững
khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Phượng bị thực dân kết án tử hình. Nhờ sự
can thiệp của một người Pháp, trước đây thọ ơn cha con cô trong cuộc bố ráp của
hiến binh Nhật, Phượng được giảm xuống án chung thân. Trong tù, Phượng viết cho
Vũ một bức thư thể hiện niềm tin về một tương lai tươi sáng.
Người yêu nước ra đời được báo chí tiến bộ
đương thời đánh giá rất cao. Dương Tử Giang (1918 - 1956) nhà văn cùng thế hệ với
Thẩm Thệ Hà đã viết trên Nguồn sống (số 3): “Người yêu nước có
lẽ là quyển truyện dài khá nhất đã xuất bản từ sau chiến tranh đến ngày truyện ấy
ra đời”; Nguyễn Bảo Hóa (bút hiệu Tô Nguyệt Đình) viết trên báo Ánh
sáng (số 346-347): “Sáng tác được một tác phẩm như Người yêu
nướcchẳng phải là một việc dễ. Tác giả đã tỏ ra sự cố gắng trong lúc ghi
chép những phản ảnh của thời đại, nó đánh dấu một biến chuyển lớn lao của nền
văn hóa nước nhà”; Việt báo (số 4) cũng nhận định:
“Hành văn trong sáng và linh hoạt. Cốt truyện cảm động và ý nhị. Có thể nói đó
là tác phẩm đặc sắc nhất của tác giả, và Thẩm Thệ Hà đã thành công ở công cuộc
biểu dương nền ‘văn chương tranh đấu’ với tác phẩm này”.
Người yêu nước viết về cuộc sống xã hội của
những con người, đặc biệt là những thanh niên trí thức, trước cách mạng tháng
Tám và những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vũ là nhân vật tiêu biểu cho lớp
thanh niên trí thức thành thị, sống sung sướng, những ngày đầu cuộc kháng chiến
còn bỡ ngỡ, hoài nghi. Sau khi được Bão giác ngộ, Vũ đi theo cách mạng và cảm
thấy ngạc nhiên với sự thay đổi của mình. Chàng lặn lội khắp các vùng quê hẻo
lánh và đem những hiểu biết của mình dạy cho những người dốt nát. Vũ nhận ra rằng
cách mạng chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ. Điều kiện đủ chính là sự hưởng ứng
nhiệt liệt của quần chúng nhân dân lao động. Bởi “cách mạng là ngày hội của quần
chúng nhân dân”, “dân là gốc” là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của mọi
cuộc cách mạng.
Trong Người yêu nước ta thấy xuất hiện một
kiểu nhân vật tương đối gần gũi với kiểu nhân vật mà sau này trở thành phổ biến
trong các tác phẩm văn xuôi giai đoạn chống Mỹ cứu nước: nhân vật “người Đảng”.
Nhân vật “người Đảng” là nhân vật đã giác ngộ và đi theo cách mạng rồi quay trở
lại tác động, giác ngộ cho những nhân vật khác. Trong Người yêu nước:
Bão giác ngộ cho Vũ; Vũ giác ngộ cho Phượng; Phượng lại giác ngộ cho cha mình.
Trong tiểu thuyết Vó ngựa cầu thu, nhân vật Sơn cũng có một kiểu thức
như vậy. Sơn đã giác ngộ cho Lan Phương. Những nhân vật như Vũ, Sơn có những
nét gần gũi với A Châu trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Thế
trong Đất nước đứng lên và Quyết trong Rừng xà nu của
Nguyên Ngọc, Chị Ba Dương trong Một chuyện chép ở bệnh viện của
Bùi Đức Ái,… đó là nhân vật xuất hiện để giác ngộ quần chúng đi theo cách mạng.
Với họ, tình yêu của cá nhân, nhiệm vụ đối với gia đình đành tạm gác lại và
dành tất cả sức lực, trí tuệ cho nhiệm vụ cứu nước. Họ đến với cách mạng với
tinh thần tự nhiệm. Hình ảnh của Vũ khiến chúng ta không thể không liên tưởng đến
nhân vật Dũng trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh (1905 - 1963).
Cũng như Dũng, Vũ cảm thấy khổ sở và dằn vặt trước đời sống sung túc của mình
và muốn làm một điều gì đó có ích cho giới cần lao. Và cuộc “tìm đường” của Vũ
cũng khiến ta nhớ đến những trí thức tìm đường và nhận đường trong Đôi
mắtcủa nhà văn Nam Cao (1915 - 1951). Người yêu nước có
nhiều trường đoạn về sự triết lý con đường giải phóng dân tộc của những người
trí thức. Cũng có lúc họ dao động, mất niềm tin vào “đám cần lao, cùng khổ, thất
học” nhưng rồi chính họ lại tự đánh tan ngờ vực và thấy ở khối người đó có sức
mạnh to lớn. Nguyễn Văn Sâm có lý khi cho rằng Người yêu nước đã
thể hiện một “diễn trình ý thức cách mạng”2 của tác giả. Người
yêu nước là tác phẩm có chiều sâu nhất của Thẩm Thệ Hà: giọng kể thay
đổi linh hoạt khi thì ngôi thứ nhất, khi thì ngôi thứ ba; cuộc sống và cách mạng
được thể hiện qua điểm nhìn từ nhiều phía của các nhân vật. Nó xứng đáng được
xem là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất trong văn nghiệp của nhà văn.
3. Thẩm Thệ Hà và con đường cách mạng tân văn hoá
Viết về chân dung phê bình văn học Thẩm Thệ Hà trước 1954
cần tập trung vào cuộc bút chiến trao đổi giữa nhóm Chân trời mới và Tân
Việt Nam trên Việt bút và Tiếng chuông.
Trong bài viết Tâm sự của nhà phê bình trước thềm
năm mới, Thẩm Thệ Hà tâm sự về công việc giữ mục “Phê bình sách mới” trên tạp
chí Phổ thông: “Tôi rất ái ngại khi nhận phụ trách mục “Phê bình
sách mới”. Nhiều nhà phê bình đã than phiền với tôi rằng: “phê bình thẳng thắn
thường hay bị đụng chạm. Nhà phê bình bị oán ghét nhiều hơn là được khích lệ”.
Chính tôi cũng công nhận điều nhận xét ấy: phê bình thiên lệch, ca ngợi vì tình
cảm cá nhân sẽ bị độc giả khinh bỉ; phê bình khách quan, chỉ trích thẳng tay sẽ
bị nhà văn, nhà thơ ác cảm. Vậy thì nhà phê bình biết trọng thiên chức, sứ mạng
của họ thật khó khăn và bạc bẽo biết bao. Tôi thường nghĩ: “sinh hoạt văn nghệ
thiếu phê bình sẽ trở nên tẻ nhạt. Phê bình rất cần để đem lại sinh khí mới mẻ
cho vườn hoa nghệ thuật” vì vậy tôi không ngại sứ mạng khó khắn và bạc bẽo, vui
vẻ cầm bút phê bình sách mới cho tạp chí Phổ thông” (Tâm sự của
nhà phê bình trước thềm năm mới, Tạp chí Phổ thông, số 120,
1964). Đó là tâm sự của một người có “thâm niên” trong lĩnh vực phê bình văn học
trước 1954.
Nhóm Chân trời mới chủ trương Văn
chương tả chân xã hội (tức văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa), còn
nhóm Tân Việt Nam và nhiều nhà văn độc lập khác chủ
trương Văn chương tranh đấu. Nhóm Chân trời mới đại
diện là Thiên Giang và Thê Húc, “phủ nhận văn chương tranh đấu” (lời Thẩm Thệ
Hà), vì vậy xảy ra cuộc bút chiến hàng mấy tháng trời trong năm 1948 trên các
báo Việt bút, Tiếng chuông giữa Thẩm Thệ Hà và
Thiên Giang, Thê Húc. Các bài viết trên Việt bút và Tiếng
chuông về sau được tập hợp và biên tập thành cuốn Việt Nam
trên đường cách mạng Tân văn hoá.
Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá có
tác động đối với đời sống văn học và định hình thiên hướng của gương mặt
phê bình Thẩm Thệ Hà trong đường hướng: đọc văn chương như một hoạt động văn
hoá để bảo vệ dân tộc. Trong tác phẩm này, ông đã viết: “Sau khi phong trào
giải phóng bột khởi, văn hoá Việt Nam bước qua một giai đoạn mới: văn hoá là một
lợi khí sắc bén để tranh đấu cho sự mất còn của một dân tộc. Văn chương là một
hoạt động của văn hoá, lẽ tức nhiên cũng góp phần nào vào cuộc tranh đấu ấy.
Trước ngày giải phóng, văn chương là một lợi khí vị nhân sinh, nay vì lẽ tồn
vong của nước nhà mà chuyển thành một lợi khí tranh đấu” (Việt Nam trên đường
cách mạng Tân văn hoá, Tân Việt, 1949, tr.40). Tinh thần ấy cũng được tác
giả nhắc lại trong lời tựa tiểu thuyết Người yêu nước (1949).
Thẩm Thệ Hà viết phê bình có quan điểm và sứ mệnh rõ
ràng. Giữa quan điểm phê bình và ý hướng sáng tác của ông là khá thống nhất.
Ông viết nhiều bài phê bình sau 1954 khi phụ trách chuyên mục “Phê bình sách mới”
và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ thông (1958 - 1965) của
Nguyễn Vỹ. Nhìn chung, tác giả vẫn giữ được phong cách và quan niệm về phê bình
trên Việt bút và Tiếng chuông.
Nghiên cứu phê bình văn học, Thẩm Thệ Hà thiên về phương
pháp phê bình lịch sử xã hội. Trong các bài viết, ông cho thấy sự bao quát lịch
sử xã hội đồng thời là sự cảm thụ tinh tế. Cần chú ý, bên cạnh những bài phê
bình văn học, các sách nghị luận, giảng văn (chủ yếu sau 1954) cũng cho thấy rõ
xu hướng thẩm bình của ông.
Tác giả là cây bút sở trường văn xuôi đồng thời lại có khả
năng thẩm định thơ tinh tế (tác giả cũng là một người làm thơ, bắt đầu bước vào
con đường văn nghệ bằng những vần thơ).
Phong cách chuẩn mực nơi ngòi bút Thẩm Thệ Hà có lẽ do ảnh
hưởng từ học vấn và nghề nghiệp (ông sống chủ yếu bằng nghề dạy học), ông đặc
biệt yêu thích và tỏ ra tinh tế nơi những tác phẩm gắn với môi trường giáo dục?
4. Tạm kết
Có thể thấy, so với thời kỳ trước 1954, văn phong của Thẩm
Thệ Hà không mấy thay đổi, có chăng là trong cách nhìn nhận đánh giá hiện thực
cuộc sống. Trước đây văn ông đầy chất lãng mạn, lạc quan thì nay lại thêm dư vị
đắng cay, đôi chút đượm buồn. Các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà dù được viết sau
1945 nhưng nhiều nhân vật vẫn mang hơi thở của các nhân vật thời tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn. Những Sơn và Lan (Vó ngựa cầu thu), Vũ và Phương (Người
yêu nước), Thúy (Đời tươi thắm) dù sống trong thời chiến nhưng họ vẫn
mang những tâm tình lãng mạn, có lúc họ mơ mộng viển vông, chìm đắm trong những
nỗi buồn vô cớ. Thế nhưng, điểm làm cho người đọc yêu thích nhân vật của Thẩm
Thệ Hà chính là nhờ vào quá trình thay đổi nhận thức của họ trước thời cuộc.
Con người trong tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà được miêu tả sẵn sàng hi sinh tình yêu
riêng tư cho hạnh phúc chung của toàn dân tộc. Tình yêu nhiều khi đóng vai trò
là động lực tinh thần giúp cá nhân vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành
nhiệm vụ đối với đất nước.
Nhận xét về các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà, nhà nghiên cứu
Trần Hữu Tá cho rằng: “Thời gian qua đi, giờ đây đọc lại người đọc dễ thấy những
khiếm khuyết của tác giả về phương diện dựng truyện, khắc họa tính cách tâm lý…
nhưng vẫn không thể không xúc động: người viết đã gửi vào trang sách của mình một
tấm lòng nặng tình với đất nước”. Cái làm nên tầm vóc Thẩm Thể Hà đúng là qua
trang sách tác giả đã thể hiện được tấm lòng “nặng tình với đất nước” và chúng
tôi xinh nhấn mạnh thêm điểm quan trọng khác chính là ở sự chân thật trong ngòi
bút và nhân cách trí thức của nhà văn(3).
PHAN MẠNH HÙNG
Theo Văn hóa và Du lịch,
tháng 3&5/2016
_____________________
Chú thích:
1. Nhiều
tác giả: Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, 2004,
tr.1643.
2. Nguyễn
Văn Sâm: Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xb, Sài Gòn,
1969, tr.150.
3. Nghiên
cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM)
trong khuôn khổ đề tài mã số 2013B-18b-05.
Tài liệu tham khảo
1. Nhiều
tác giả (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.
2. Trần
Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hoá Thành phố Hồ
Chí Minh, tập III, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Trần
Tuấn Kiệt (1967), Thi ca Việt Nam hiện đại 1880 - 1965, Khai Trí xuất
bản, Sài Gòn.
4. Võ
Văn Nhơn (1997), “Văn xuôi yêu nước và tiến bộ trong các thành thị bị tạm chiếm
(1945 - 1954)”, Tập san Khoa học Xã hội & Nhân văn, số 5.
5. Trần
Hữu Tá (2003), “Một cây bút khả kính”, Tuổi trẻ chủ nhật, số 9, ra
ngày 9 /3/2003.
6. Trần
Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
7. Thanh
Việt Thanh (1993), Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn
Q. Thắng (2008), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, Nxb Văn học, Hà
Nội.
9. Nguyễn
Văn Sâm (1969), Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xuất bản,
Sài Gòn.
10. Nguyễn
Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945 - 1950, Lửa
Thiêng xuất bản, Sài Gòn.
11. Nguyễn
Thị Thanh Xuân (1998), Nhìn lại văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ
(1945-1954), In trong Bình luận văn học, niên giám 1997, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
TÁC
GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC: