Tôn trọng Trái đất tức tôn trọng con người, phá hủy Trái
đất tức phá hủy căn nhà con người sống,
tàn phá môi trường tức làm thui chột tính người. Đó là tinh thần nhân văn đáng
quý của hướng nghiên cứu này…
Nó kêu gọi con người phải hòa hợp, giữ gìn, tôn trọng tự nhiên, sống
chung với tự nhiên.
Một nội dung cơ bản của triết học văn hóa đương đại là đối thoại, mà căn cứ để đối thoại
là hiểu biết (tự nhiên); bình đẳng (với tự nhiên); tôn trọng, và biết lắng
nghe (tự nhiên). Ngay Thế vận hội mùa Hè Rio de Janeiro 2016 vừa diễn ra tại
Brazil nổi tiếng môi trường xanh
cũng kêu gọi toàn thế giới bảo vệ môi trường và bầu không khí.
Phê bình
sinh thái, hiểu một cách giản dị là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi
trường, đề xuất quan niệm lấy “trái
đất làm trung tâm” nhằm gắn kết và gắn nối môi trường tự nhiên và văn hóa để kiến
tạo văn bản văn hóa về môi trường.
Như một tất yếu,
phê bình sinh thái đương đại kêu gọi quay trở về với giá trị văn hóa
phương Đông, mà từ hàng ngàn năm nay với thuyết “thiên nhân hợp nhất” luôn quan
niệm con người thống nhất, hài hòa
với tự nhiên, là một phần của tự nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai
sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật” (Lão Tử).
Khổng Tử còn dạy học trò thuận theo tự nhiên thì phải tôn
trọng nó, không được đốn cây lớn trong mùa xuân, không được bắt cá nhỏ. Trong
truyền thống văn hóa Ấn Độ, trước khi làm nhiệm vụ trị vì quốc gia, các vị anh
hùng đều phải có thời gian tu thân trên núi cao, trong rừng thẳm để hòa mình
vào thiên nhiên, tu trí, tĩnh tâm.
Là một cộng đồng dân tộc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới
nóng ẩm cây cối hoa lá quanh năm tươi tốt nên cảm quan của người Việt Nam là cảm quan của thiên nhiên cây cỏ. Từ
hàng ngàn năm nay, người Việt chung sống hài hòa với thiên nhiên, thiên
nhiên luôn là đối tượng thẩm mỹ để họ sáng tạo nghệ thuật, nhất là với thơ ca.
Hôm nay, soi lý
thuyết phê bình sinh thái hiện đại vào thơ Nguyễn Trãi, thật ngạc nhiên và tự hào khi thấy trong thế giới thơ ông gần như là sự chứng minh cho các luận
điểm cơ bản của lý thuyết này. Có thể khẳng định, vĩ nhân ấy là con người của nhân loại, mang tầm văn hóa nhân
loại, đi trước thời đại hơn 600 năm.
Thiên nhiên tràn ngập trong thơ Nguyễn Trãi, hầu như bài
nào cũng có sự xuất hiện của thiên nhiên, nhất là cái đẹp nơi thiên nhiên luôn
gần gũi gắn bó với con người. Vì tôn trọng cái đẹp, yêu cái đẹp mà đau xót, tiếc
nuối cho cái đẹp không có người thưởng thức. Xuân đi, hè đến, cả chủ thể và
nhân vật trữ tình (cô gái) trong bài thơ này đều tiếc xuân: “Vì ai cho cái đỗ
quyên kêu/ Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu/ Lại có hòe hoa chen bóng lục/ Thức
xuân một điểm não lòng nhau” (Cảnh hè, Thơ Nôm). Một tứ thơ hay, một sự
tinh tế chỉ có được khi tác giả lắng nghe bước đi của tạo vật: mùa hè lại có
hoa hòe đem đến vẻ xuân gợi ở người sự “não lòng” tiếc xuân.
Nhà thơ cảm nhận cái đẹp luôn trong trạng thái non tơ
đang cựa quậy chứ không tròn trịa đã vào thời viên mãn, thậm chí ở thời điểm khởi
đầu: “Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt/ Vườn kín hoa truyền mới lọt tin/
Cành có tinh thần ong chửa thấy/Tính quen khinh bạc bướm chăng gìn/ Lạc Dương
khách ắt thăm thinh nhọc/ Sá mựa cho ai quẩy đến bên” (Đầu Xuân đắc ý, Thơ
Nôm).
Vì xuân đến chậm nên liễu chưa thấy mặt. “Vườn kín hoa
truyền mới lọt tin” tức hoa mới chớm nụ, hương hoa mới chớm bay ra khỏi vườn
kín nên “ong chửa thấy” mà tìm đến nhưng bướm thì chẳng biết giữ gìn gì cứ vô
tư đậu vào cành. Đúng là thế giới của cái đẹp “non tơ phong nhụy”, tất cả như
đang phập phồng xuân khí.
Đất Lạc Dương là kinh đô Trung Quốc thời Ngũ đại vốn rất
đẹp, từng là nơi tụ hội các thi nhân. Lạc Dương đẹp thế nhưng nơi này đẹp không
kém nên ta chẳng cho (sá mựa) ai quẩy xuân này đến đó mà đem cái đẹp của ta đi.
Cũng chỉ mạo muội “diễn nôm” câu thơ để thấy phần nào cái đẹp của ý thơ phải
nói là tuyệt bút này. Nhưng có thể hiểu một triết lý của triết gia Nguyễn Trãi:
Cái đẹp, đẹp nhất là ở buổi ban đầu… Đặc sắc hơn là nói bằng hình tượng thơ.
Thơ Ức Trai có lúc đậm chất huyền thoại để diễn tả cái đẹp
hư ảo mong manh, cũng là để giãi bày tấc lòng say, tiếc, trân trọng cái đẹp: “Một
tiếng chày đâu đâm cối nguyệt/ Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng” (Thơ tiếc
cảnh, Thơ Nôm). Hình tượng thơ kiến tạo trên nền thần thoại: trên mặt trăng có
thỏ giã thuốc tiên. Nhưng tất cả là hư ảo nên không biết đó là tiếng chày con
thỏ giã thuốc trên mặt trăng hay tiếng chày dưới trần thế, vì vậy mà thi nhân mới
thốt lên “khoan khoan” kẻo tiếng chày làm vỡ mất vầng trăng. Đây không phải thơ
của người mà là thơ của tiên. Phải là thi tiên mới có những câu như vậy!
Kế thừa quan niệm, thi pháp và thành tựu từ Nguyễn Trãi,
thơ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng rất nhiều hình ảnh thiên nhiên, nhiều nhất
là hình ảnh mùa xuân. Chỉ tiếc ông làm thơ hầu hết bằng chữ Hán. Mùa xuân trong
thơ Trình Quốc Công biểu trưng cho sự sống sinh sôi, nảy nở, ấm áp, tươi vui. Với
nhà thơ chữ Xuân đồng nghĩa với chữ Hoà: “Mộ xuân tối ái nhất thiên hòa/ Cuối
xuân thích nhất là khí trời luôn hòa dịu” (Mộ xuân); “Thiều quang thục
úc kháp giai thần/ Ánh sáng xuân dịu, đúng là tiết tốt lành” (Tân niên hý
tác).
Xuân cũng đồng nghĩa với cái đẹp: “Am quán trùng lai hựu
nhất xuân/ Tứ thì giai cảnh tối nghi nhân - Lại mùa xuân nữa đến với quán am/
Phong cảnh bốn mùa rất đẹp, hợp với con người” (Hữu bộ hạ tân huyện). Thiên
nhiên thiên về tĩnh với gam màu xanh trong: “Thanh phong minh nguyệt vi ngô
hữu/ Bích thủy thanh sơn độc tự ngu - Gió mát trăng sáng là bạn của ta/ Nước biếc
non xanh vui riêng mình” (Tân quán ngụ hứng 24).
Trước cửa cái lều của thi nhân có cành tre la đà nhìn ra
vùng sông nước: “Ngô ái ngô lư thủy trúc thanh/ Ta thích lều ta có cảnh tre
nước trong xanh”. Thiên nhiên vừa là bạn hữu vừa là đối tượng sáng tác, lại
là nơi để sống thanh sạch nhất, theo đúng nghĩa của từ này: “Thi tá oanh hoa
thiên thủ hữu/ Phong lâm kỉ án nhất trần vô - Thi tứ về hoa và chim, sẵn có
nghìn bài/ Gió lọt vào án sách và ghế, không một hạt bụi” (Tân quán ngụ hứng).
Đến thời hiện đại, nhà thơ lớn Hồ Chí Minh rất ưa cuộc sống
gần nơi thiên nhiên tự do, tĩnh tại, thanh sạch: “Riêng phần tôi thì làm một
cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm
bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu…”.
Khi phải gánh vác nhiệm vụ trọng đại lãnh đạo cuộc kháng
chiến Bác Hồ vẫn cố dành thời gian hạnh phúc cùng thiên nhiên, làm thơ cùng “bạn”
trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ”, dành thời gian hạnh phúc cùng con trẻ, cùng
cỏ cây: “Việc quân, việc nước đã bàn/ Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau”…
Bác Hồ đã học tập, tiếp thu, kế thừa, phát triển và nâng cao từ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến…
Thơ Việt ở ngày hôm nay, nhất là thơ trẻ có một đặc điểm
dễ nhận thấy là hay thiên về triết lý, trong khi đó, để có màu sắc trí tuệ
không hẳn dễ vì đòi hỏi phải có vốn sống từng trải, vốn văn hóa sâu rộng. Tài
năng như Chế Lan Viên cũng phải đợi khi đủ độ chín về hiểu biết và tuổi tác mới
có những triết lý về thơ, về đời, về lẽ sống và cách sống. Thế nên, mặc dù có
thể thực sự trí tuệ nhưng do còn thiếu sự va đập từng trải nên thơ trẻ triết lý
chưa đủ sức thuyết phục bởi sự, khiên cưỡng của hình tượng.
Từ góc độ tiếp nhận cũng cho thấy khi xã hội ngày một văn
minh, vật chất ngày thêm nhiều thì con người lại phải đối phó với bao nỗi bất
an, là môi trường ô nhiễm, là tai nạn do thiên tai và do chính con người gây ra
như giao thông, văn hóa xuống cấp, ô nhiễm không khí…
Do vậy, khao khát sâu thẳm của nhân loại là được sống
cùng thế giới trong lành, yên tĩnh, bình an mà tươi tắn sống động. Thế giới ấy
chỉ có thể có được ở nơi thiên nhiên chan hòa ánh sáng của mặt trời và ánh
trăng, đầy gió và nắng, đầy cỏ và hoa cùng thế giới loài vật quen thuộc, là
cánh chim, là tiếng gà gáy, là âm thanh mõ trâu… Thật tiếc, một thế giới trong
trẻo, nguyên sơ, thanh khiết ấy lại thiếu vắng trong thơ trẻ hôm nay!
Khi trở về với thiên nhiên là ta có được một thế giới
tính từ lấp lánh sắc màu đời sống, một phẩm chất quan trọng của thơ. Hãy minh họa
điều này bằng tác phẩm của các nhà thơ đã được khẳng định, với Dương Kiều Minh
sở hữu vốn tính từ đáng khâm phục: tim tím, ngai ngái, lấp lóa, âm âm, dìu dịu,
thiêm thiếp, heo heo xanh, mênh mang ánh sáng… và hàng loạt hình ảnh làng quê
sinh động mà lạ lẫm: con đường hoa vối, giọt sương, ngồng cải, cỏ may…
Với Ngân Hoa là mùi bùn ngai ngái, làn khói xanh âm ẩm dịu
dàng, nhỏ nhoi, chập chững, đo đỏ, rôn rốt, chun chút… Với Bằng Vũ là trăng cào
ổ lá, mùa núm áo đơm bông, con bướm vàng dạm ngõ, lá sen nghiêng như mặt người
quay lại… Và nhiều nhà thơ khác tên tuổi họ gắn liền với các hình tượng thiên
nhiên, đúng hơn thiên nhiên đã nâng tên tuổi họ trong thơ, là Hữu Thỉnh, Ý Nhi,
Xuân Quỳnh, Ngô Văn Phú, Nguyễn Duy, Đỗ Trung Lai, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn
Quyến…
Những câu thơ hay nhất của Nguyễn Quang Thiều được lấy cảm
hứng từ thiên nhiên: “Những xôn xao lùa qua hơi ẩm/ Vọng về từ cánh đồng rộng
lớn mù sương/ Tiếng bánh xe trâu lặng lẽ qua đêm/ Chất đầy hương cỏ tươi lăn về
nơi hừng sáng… Bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh, một trong những bài
thơ hay nhất của ông, cũng về đề tài thiên nhiên…
Xã hội ngày một văn minh, khoa học kỹ thuật ngày một phát
triển thì con người càng cần đến thơ, để cân bằng với cuộc sống hối hả, nhộn nhịp,
để trở về với thế giới đồng thoại đậm màu cổ tích lung linh, lộng lẫy mà nguyên
sơ. Vì thế thơ phải tươi mát hơn, hồn nhiên hơn, trong sáng, ấm áp hơn. Có một
con đường ngắn nhất là trở về với thiên nhiên, nhất là với các nhà thơ trẻ!
NGUYỄN THANH TÚ
Nguồn: VNCA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét