Nhà văn Sơn Nam
Nhờ hệ thống giao thông phát triển, đường về rừng U Minh
thuận lợi, không còn khó khăn sình lầy như ngày xưa. Phong cảnh thiên nhiên,
làng xóm và cuộc sống người dân từ U Minh Thượng đến U Minh Hạ đều đổi thay rất
nhiều. Tuy nhiên, nhìn cảnh nhìn người U Minh, tôi vẫn thấy nhiều nét quen thuộc
từng bàng bạc trên những trang viết giản dị mà sâu sắc đầy “hương rừng” của bậc
tiền bối tài hoa lận đận Sơn Nam. Đứng giữa biển rừng xa xôi Tây Nam, tôi cảm
thấy nhà văn như vẫn đang hiện diện đâu đây, với kính cận mũ diềm túi xách xắn
quần lội bộ trên kênh rạch, bãi bùn. Sơn Nam như U Minh, mộc mạc và bí ẩn.
Chúng tôi cùng đoàn văn nghệ sĩ Sài Gòn về với rừng U
Minh khi sinh nhật 90 tuổi và kỷ niệm 8 năm ngày mất của nhà văn Sơn Nam cận kề.
Giấy khai sinh đề ngày 11-12-1926, nhưng theo lời mẹ của nhà văn Sơn Nam kể lại
thì ông sinh giữa tháng 8 năm Bính Dần 1926. Do hoàn cảnh khắc nghiệt lúc ấy, đứa
trẻ sau khi chào đời 3 tháng 10 ngày mà còn sống sót thì gia đình mới đến chính
quyền làm giấy khai sinh. Tên cha mẹ đặt cho ông là Phạm Minh Tài, nhưng do cán
bộ hộ tịch viết sai i thành y nên giấy khai sinh đề tên Phạm Minh Tày. Quê gốc ở
cù lao Ông Chưởng thuộc tỉnh An Giang, từ đời ông nội chạy giặc Pháp qua Rạch
Giá xuống U Minh lập nghiệp, nhà văn Sơn Nam là đời thứ ba của dòng họ Phạm gắn
bó với vùng đất “Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tựa bánh canh”.
Cái làng nhỏ Đông Thái ở rừng U Minh, nay thuộc huyện An
Biên, tỉnh Kiên Giang, ngoài nhà văn Sơn Nam còn là nơi nhà thơ, soạn giả Kiên
Giang - Hà Huy Hà được sinh ra và hai ông trở thành bạn thân của nhau trên “trường
văn trận bút” cho đến khi trở về với cát bụi. Làng Đông Thái nằm cách bờ biển
ven vịnh Thái Lan chỉ vài cây số, nhưng tới lúc 10 tuổi Sơn Nam mới lần đầu thấy
biển. “Bờ biển là bãi bùn hàng ki lô mét, đầy cây mấm, cây giá, muỗi mòng bay
ào ào ngày như đêm, bước xuống thì lún ngang đầu gối. Rừng cũng vậy, mãn năm
sình lầy, dưới bùn lố nhố những gốc cây đã chết hoặc cây sậy, đế, khá bén nhọn.
Ấy thế mà người dân đi chân đất, gần như chẳng bao giờ bị thương tích đáng kể”.
Nhà văn Sơn Nam kể lại trong hồi ký của mình, ông còn cho biết thêm: “Chung
quanh nhà, nơi tôi chào đời, đầy lau sậy, luôn luôn có muỗi lại còn ong rừng (gọi
ong mật). Hừng sáng, trẻ con dễ đói bụng, thường đi tìm đám lau sậy hoặc cây tạp
là gặp tổ ong mật, ổ còn nhỏ ni tấc cỡ cái bánh tráng (bánh đa). Vắt mật ong, uống
tại chỗ gọi là ăn điểm tâm, lát sau ra về, lừng khừng như kẻ say rượu vì mật
ong có rượu, gây khó chịu lúc đói bụng” (Từ U Minh đến Cần Thơ của
Sơn Nam).
Sinh thời, trò chuyện với chúng tôi, nhà văn Sơn Nam còn
cho hay: “Hồi nhỏ, tôi nhớ quê tôi có rất nhiều chim thú, đặc biệt là cọp, khỉ,
heo rừng, nai, thỏ. Hơn năm cây số bờ rạch toàn đất úng, um tùm rừng tràm, cỏ
lác, cỏ năn. Chẳng một ai thèm để mắt đến đất, chớ nói chi tới tranh chấp. Dân
quê lại thường đồn đãi chuyện ma quỷ. Những lúc rảnh rang là họ tụm năm tụm ba
rượu trà, đờn ca, thổi sáo và kể đủ chuyện, sau gom lại viết thành một truyện
ngắn, cốt cho hấp dẫn. Và cứ thế, tôi liên tục khai thác nền văn minh miệt vườn
trong các trang viết của mình”. Xóm nhỏ mà gia đình họ Phạm định cư có mấy mươi
nóc nhà người Khmer. Nhà văn Sơn Nam có người bác ruột thứ Hai giữ búi tóc, mù
chữ, nhưng biết xem bói tướng, có duyên kể chuyện khẩn hoang, hay giao du với người
Khmer, nói rành tiếng Khmer, kể chuyện cổ tích Khmer và thích lên đồng bóng mời
thổ thần người Khmer nhập vào. Nhờ những câu chuyện từ ông bác Hai và người dân
rừng U Minh mà sau này nhà văn Sơn Nam đã viết nên công trình Lịch sử
khẩn hoang miền Namvà tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau. Khi
sách xuất bản đầu thập niên 1960, nhà văn Sơn Nam gửi một cuốn từ Sài Gòn về
quê tặng bác Hai, năm ấy đã 90 tuổi. Sau khi được một người cháu đọc sách của
Sơn Nam cho nghe, bác Hai liền nhận xét tóm tắt để đứa cháu viết thư gửi lên
Sài Gòn: “Thằng này nói dóc, nghe được quá. Nói dóc mà có căn cứ”. Nhận được
thư ngắn của bác, nhà văn Sơn Nam hết sức cảm động và nghiệm ra nhiều lý lẽ về
nghề văn: “Phải rồi, truyện ngắn, truyện kể gì gì đó đều là loại hư cấu. Nhưng
hư cấu phải có căn. Có căn tức là mang cốt lõi hiện thực. Lời nhận xét của bác
Hai khiến tôi hãnh diện với thâm tâm mình”.
Không chỉ gắn bó về đời sống tinh thần, mà nhà văn Sơn
Nam còn chịu ơn người Khmer ở rừng U Minh. Nhà văn từng kể rằng, do mẹ ông hay
đau yếu, nên sinh ra ông thiếu sữa, ốm quặt quẹo. Có một phụ nữ Khmer tốt bụng
tên Thị Cà Xúc ngày ngày đến cho bú mớm, thương ông như con ruột. Lớn lên học
hành rồi đi xa, ông không được gặp lại bà nhũ mẫu người Khmer nữa. Nhớ ơn bà
cùng những kỷ niệm ấu thơ với người Khmer, khi viết văn ông lấy bút hiệu với chữ
Sơn đứng đầu. Sơn là một trong những họ lớn của người Khmer, còn Nam là phương
Nam.
Rừng U Minh không chỉ là quê hương nghĩa tình mà còn là
nguồn cảm hứng vô tận cho nhà văn Sơn Nam viết nên nhiều tác phẩm vượt thời
gian, mang đậm hơi thở nhịp sống vùng đất mới phương Nam từ thời khẩn hoang mở
đất lập làng, chống chọi thiên nhiên khắc nghiệt và giặc ngoại xâm. Người ta
hay nói rằng tuổi thơ thế nào thì văn chương thế ấy. Điều này rất đúng với trường
hợp nhà văn Sơn Nam với tuổi thơ gắn bó với biển rừng xa xôi heo hút. Chất ngọc
từ ký ức tuổi thơ ở U Minh, cộng với trí tưởng tượng phong phú và khả năng dựng
truyện giản dị mà lôi cuốn, hấp dẫn, nhà văn Sơn Nam đã lần lượt cho ra đời mấy
mươi tác phẩm quan trọng về đất và người phương Nam từ thời khẩn hoang, trong
đó dấu ấn sâu đậm đầu tiên là tập truyện Hương rừng Cà Mau xuất
bản năm 1962, kế đến là các tác phẩm Chim quyên xuống đất, Hình bóng
cũ, Vọc nước giỡn trăng, Nói về miền Nam, Vạch một chân trời, Văn minh miệt vườn,
Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Đất Gia Định xưa, Cá tính miền Nam,…
Về kỹ thuật cầm bút, nhà văn Sơn Nam cho hay: “Tôi chọn cho mình cách viết truyện
theo kiểu dã sử hiện đại và khảo cứu về lịch sử khẩn hoang vùng đất mới Nam Bộ.
Cách viết này được nhiều độc giả quan tâm, lại không khiêu khích chánh quyền
đương thời. Người đọc tinh tế cũng dễ nhận ra sự đánh động tinh thần yêu nước,
tưởng nhớ cội nguồn tiên tổ trong những trang viết của tôi”.
Cũng từ U Minh, ông đã dấn thân vào con đường cách mạng từ
thời Thanh niên Tiền phong năm 1945, rồi lên Sài Gòn sau Hiệp định geneva năm
1954, theo đuổi lý tưởng cầm bút và hoạt động công khai giữa muôn trùng nguy
nan, trở thành một nhà văn hoá tiêu biểu của Sài Gòn và Nam Bộ nửa sau thế kỷ
XX. Hơn nửa thế kỷ kể từ chuyến xe đò rời quê hương U Minh thân thuộc cuối trời
Tổ quốc lên Sài Gòn đô hội xa lạ, ông đã hoá thân vào cát bụi để lại bao niềm
thương tiếc khôn nguôi về hình ảnh đáng kính của “Ông già đi bộ”, “Ông già Nam
Bộ”, “Ông già Ba Tri”,… và pho từ điển sống của lịch sử văn hoá Sài Gòn - Nam Bộ.
Mỗi khi nghĩ về nhà văn Sơn Nam, tôi hay liên tưởng đến
hình ảnh con người cần mẫn gom nhặt bụi vàng tinh hoa để dâng hiến cho Sài Gòn
và Nam Bộ, cũng chính là dâng hiến cho nền văn hoá vĩnh cửu của dân tộc này. Rừng
U Minh chính mà mỏ vàng khởi nghiệp của ông. Với tôi, ông luôn là huyền thoại,
một huyền thoại của rừng U Minh và đất phương Nam. Cách đây 5 năm, vào ngày
13.8.2011, tròn ba năm sau ngày “bố già” từ giã cõi trần, tôi đã hoàn thành bài
thơ dài Bụi vàng Sơn Nam tưởng nhớ ông, trong ấy có đoạn day dứt
về sự lận đận của một bậc tài danh:
“Nửa đời bơi xuồng
nửa đời cuốc bộ
một thời bưng biền
một thời phố xá
bụi vàng đầy dần
núi vàng cao dần
theo từng trang sách của ông
Những trang sách vàng ròng làm giàu tâm hồn bao thế hệ
không nuôi nổi người thợ chăm chỉ tài hoa tới khi trở
về đãi cát phía hư vô”.
PHAN HOÀNG
Nguồn: SGGP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét