Các cặp đối lập:
thiện/ác, tốt/xấu, tình yêu/thù hận, hiện thực/huyền ảo, trần trụi/thi vị,
quá khứ/hiện tại xâu chuỗi đan xen suốt hai lời nguyền: một người dân tộc đa số/một
dân tộc thiểu số, trong giai đoạn sôi động của lịch sử đất nước/câu chuyện một
làng nhỏ nhoi xa lắc lơ,… song hành
tồn tại trong Lời nguyền hai trăm năm. Có đối kháng, có thỏa hiệp nhưng không
loại trừ nhau. Chúng có mặt và tìm cách đỡ đần nhau trong thế chông
chênh chết người, để cuối cùng – sau
trải qua bao thử thách khắc nghiệt của định phận – các gút mắc được tháo gỡ
theo chiều hướng tích cực. Lời nguyền được hóa giải và, như cái giá phải trả:
nhân vật đẹp nhất đã chịu hy sinh.
Nhà văn Khôi Vũ
Hai lời nguyền với hai tính chất khác nhau, nguyên động lực
khác nhau, tầm vóc khác nhau, nhưng chịu đựng nó là hai con người đầy thiện tâm đang sống ở thời hiện đại. Ta thử
làm cái đối sánh:
– Hai Thìn
lãnh lời nguyền từ 200 năm trước / Tòng Út: vừa mới xảy ra.
– Hai Thìn chịu hậu quả lời nguyền của tổ tiên / Tòng Út
là của chính hắn.
– Lời nguyền trước mang tính tộc họ, ý thức hệ, triều đại / trong lúc lời nguyền sau
mang tính cục bộ địa phương của một bộ tộc.
– Xuất phát điểm của lời nguyền thứ nhất là lòng căm thù
/ ngược lại của lời nguyền sau: tình
yêu.
Nhưng dù gì
thì gì, hai sinh thể này đã chịu đựng bản án định mệnh dành cho mình – cho dù
hình phạt của nó mang dáng dấp cổ thời của tập quán một dân tộc (Tòng Út) hay từ
hệ quả của thứ suy luận biện chứng ngây ngô qua sự tiếp nhận bất cập ý hệ lịch
sử hiện đại (Hai Thìn):
Hai Thìn – hậu duệ mấy đời của ông tổ họ Lê, kẻ trước khi giết cha con họ Vũ, đã bắt
người cha “nhìn đứa con gái bị
hành hạ” cho tới chết, để phải chịu lời nguyền – bị cha từ chối cuộc tình với
Lài, bị “đày” đi “kinh tế mới”, bị trù dập, bị cấm hành nghề ruột, bị nghi kị,
bỏ tù, nhà bị truất hữu, cái chòi tạm trú khi trở lại quê nhà cũng bị đốt rụi,
…
Tòng Út – không được cô gái cùng làng đáp ứng tình yêu,
đã hãm hiếp nàng – để bị bà Cả Mọi nghĩ cách trừng phạt cực kỳ khắc nghiệt: cấm
nói tiếng dân tộc, bị đày biệt khỏi xứ sở Thần Rừng luân lạc tận đất Biển Cát với
nếp sinh hoạt trái khoáy. Đế suốt đời phải sống trong nỗi nhớ khôn nguôi: nhớ
tiếng nói, tiếng hát dân tộc, thèm một lần được trở lại làng bản sống cuộc sống
quen thân.
Hai con người ấy
bị số mệnh dun dủi gặp nhau tại làng Biển Cát trong giai đoạn đầy thách thức của
lịch sử hiện đại Việt Nam: 1977-1988. Họ tìm cách tẩy rửa lời nguyền:
bên này Tòng Út rửa sạch cho mình / bên kia Hai Thìn cho cả dòng họ. Hai Thìn,
sau khi dùng tiền bạc của mình xây cất trường học và cung cấp dầu thắp (là nhu yếu phẩm tối cần) cho làng Đoàn Kết
như là vật trao đổi (điều kiện mà bà Cả Mọi đặt ra) để giúp người bạn đồng cảnh
ngộ là Tòng Út trở lại cuộc sống bình thường, vô hình chung anh đã nửa bước “bước qua lời nguyền” của chính mình. Cuối cùng, để hóa giải dứt
điểm lời nguyền, tác giả giải quyết cho hai nhân vật chính của mình tìm đến cái
chết.
Đó là một kết cục bi thương. Không! Bi tráng nên – rất đẹp.
Kết cục này
khiến ta nhớ đến cái cảnh sông nước trên đê Yên Phụ ngày xưa trong đoạn kết
truyện ngắn Anh phải sống của Khái Hưng. “Thằng Bò ! Cái Nhớn ! Cái Bé !
... Không ... anh phải sống!”. Đức hi sinh của chị Lạc đã gây xúc động cho bao
thế hệ người đọc “lãng mạn”.
Ở Lời nguyền hai trăm năm, giữa cơn giận dữ của Mẹ Biển –
ngày thường là nơi chốn trú ngụ an
toàn của Hai Thìn, là nguồn sống của làng anh, gia đình anh – Khôi Vũ đã
xô ba nhân vật của mình đứng trước thách thức cuối cùng. Một miếng ván cứu nạn
duy nhất tình cờ rơi vào tay Tòng
Út. Tòng Út tìm chớp cơ hội để thoát
nạn chăng? Không, anh cho Tòng Út “đẩy miếng ván về phía Hai Thìn”. Ừ, thì
còn nghe được. Vì dẫu sao Tòng Út đã từng chịu ơn Hai Thìn, bấy lâu.
Tình tiết tiếp theo: “Hai Thìn buông mảnh ván cho Năm Mộc
nổi lên”, thì nó có hiện thực? Chắc chắn chẳng hiện thực tí nào cả. Lãng mạn
thì, đã hết thời rồi! Nhưng, lạ! Đây
là cao trào của bi kịch đồng thời đó cũng là phân đoạn đẹp nhất của tiểu thuyết,
có lẽ. Người đọc quên nhân vật Năm Mộc với một quá khứ đầy “thành tích” bất hảo
của hắn, mà chỉ nhớ hiện tại, ngay lúc này đây: ba sinh mệnh đang vật lộn với
“cơn giận dữ của Mẹ Biển”. Ba sinh mệnh, một ảnh ván cứu độ! Cuối cùng hai con
người đã chịu hy sinh để rửa sạch lời nguyền. Cho một người sống sót, “kẻ
không đáng sống trên đời”: Năm Mộc. Hắn phải sống: “Con Tám bị bệnh trời hành.
Ráng sống mà tìm cho nó một tấm chồng!” (tr.188). Cơ hội cuối cùng tác giả dành cho kẻ sắp nhận lời
nguyền thứ ba chăng? Không, đó là lời chúc phúc, một hi vọng thể hiện nhân
tính, cứu độ linh hồn.
Hai Thìn
làm xong phận sự với làng Đoàn Kết, đáp ứng ước nguyện của người cha: để lại giọt
máu (con trai) nối dõi. Anh thanh thản “chìm vào vòng ôm tiếc thương của mình. Biển cả”. Còn Tòng Út:
“Anh thấy mình từ từ chìm xuống. Hai tay anh cố vươn cao, một tay cầm đàn, tay kia cố gẩy
vào sáu sợi dây đàn, nghĩ là mình nghe những âm thanh cuối cùng của rừng
núi. Anh hướng về phía bờ, đọc lời
khấn Thần Rừng lần đầu tiên bằng tiếng người dân tộc kể từ khi bị trừng phạt.
Cũng là lần cuối cùng của đời anh” (tr.187).
Tất cả đều mãn
nguyện. Cả người đọc. Chúng ta không
còn hỏi tại sao, tại sao có sự phi lí ở các tình tiết nữa. Có thể nó
mang tính tượng trưng hay ẩn dụ hoặc,
một hiện thực đầy huyền ảo, nếu có thể nói thế. Bởi trước đó, người đọc đã
được nghe nhiều đoạn đối thoại của Hai Thìn và Gió Biển (tượng trưng cho linh giác, tình cảm), Hai
Thìn và Con Ó (tượng trưng cho sự
khôn ngoan, cho lí tính muốn tìm hiểu cái bất khả tri của cõi người), Hai Thìn và tia nắng hay căn
chòi,…Cả Út Tòng với cây đàn ống tre. Không vấn đề gì cả!
Đấy là cái tài của Khôi Vũ.
Tài kể chuyện: Hai dòng lịch sử cận và hiện đại với các
biến cố dồn dập của một câu chuyện xảy ra trong quá khứ/hiện tại đuổi theo
nhau: 1977/1802, 1836-1978/1862-1979/1864, 1865-1985/1925-1985/1939-1987 … đan
xen trùng lớp, đã tạo sức hấp dẫn đặc biệt của tiểu thuyết. Cho đến khi đoạn kết
của quá khứ bắt kịp khởi đầu của hiện tại ở thời điểm 1939, lúc Hai xung phong
thí phát quy y thành Thích Huệ Mẫn, chúng ta mới vỡ ra rằng: “vua biển” Hai
Thìn chính là kẻ đang phải chịu án “lời nguyền” hai trăm năm trước. Từ đó câu
chuyện hiện tại phát triển…
Cả tài dụng văn: anh đã thuyết phục được người đọc tin
vào câu chuyện anh kể bằng câu văn ngắn, gân guốc, hơi văn nhanh, khỏe khoắn.
Hãy nghe anh tả “ngọn lửa”, thứ ngọn lửa xuất phát từ căn “bệnh trời hành”, tưởng như lạ lẫm mà không xa lạ: góa phụ
đang khao khát tình yêu chăn gối vợ chồng. “Ngọn lửa đang âm ỉ cháy
trong cơ thể mình”, “Ngọn lửa lạ lùng vẫn bốc cao”, “Ngọn lửa vẫn hừng hực
cháy”, “Ngọn lửa cháy nóng như
thiêu”,… (tr.94-97).
Nhưng không phải
vì thế mà Khôi Vũ không có những đoạn văn thi vị. Chúng ta thử đọc:
“Gió biển từ ngoài khơi được tin, bay đến tận nhà Hai Thìn để chia vui cùng vua biển. Rừng
phi lao đứng chờ gió biển trở về, kể chuyện. Chuyện không ít. Gió biển phải lưu
lại khá lâu. Chẳng ai lưu ý sự có mặt của nó, trừ con ó lửa đứng ở góc phòng.
Gió biển cố ghi nhớ để còn kể lại cho rừng phi lao nghe…” (tr. 88)
Thực và ảo, thực mà ảo. Có lẽ chỉ có loại văn ấy mới có
khả năng hóa giải lời nguyền độc, thứ lời nguyền xuất phát từ sự xấu ác vẫn
chưa rời bỏ phần mảnh đất u tối của tâm hồn của con người. Từ bao đời…
Sài Gòn, tháng
05.2005
INRASARA
Theo VCV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét