Nhà thơ Tản Đà
Tản Đà được
nhìn nhận là người mở đầu của
nền thơ ca Việt Nam hiện đại, làm chủ bút nhiều tờ báo với những bút ký,
tiểu phẩm, thơ trào phúng... thể hiện
sự đồng cảm sâu sắc với những khổ nhục của đồng bào, bản thân trong kiếp sống
nô lệ lầm than thời thực dân phong kiến. Bằng lối hành văn mới lạ, khác với lối
học hành cử nghiệp khoa bảng, văn xuôi Tản Đà mang màu sắc sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn đầy bản sắc,
đề cập đến nhiều góc cạnh xã hội đương thời. Nhân kỷ niệm Ngày Báo chí
Cách mạng Việt Nam, cần thiết xem lại nỗi khổ ải, thân phận hẩm hiu của tầng lớp
tri thức lúc bấy giờ.
Khẳng định tài
năng
Nước non nặng một lời
thề
Nước đi đi mãi
không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước
thề non
Nước đi chưa lại, non còn đứng không
Non cao những ngóng
cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ
mong tháng ngày...
(Thề non nước)
Những ai quan
tâm đến văn đàn chắc hẳn đều biết và cảm nhận sâu sắc bài thơ “Thề non nước” của
Tản Đà - một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi, đi sâu vào tâm
khảm mỗi người. Là một người dân mất
nước, ông đã nói lên thân phận dân tộc một cách gián tiếp, bày tỏ lòng
yêu nước thiết tha. Trong lĩnh vực
thơ ca, ông có những vần thơ lãng mạn, sáng tạo, sâu sắc, diễn đạt vượt
thoát lối văn chương niêm luật đương thời.
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa, có thế thôi
Đá mòn, rêu nhạt
Nước
chảy, huê trôi.
Cái hạc bay vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn
bóng trăng chơi
(Tống biệt)
Với tài năng và bản sắc riêng biệt, Tản Đà đã xác lập được
vị trí tiên phong trên văn đàn đầu thế kỷ 20. Hoài Thanh và Hoài Chân trong cuốn
thi nhân Việt Nam (1941) đã viết: “Thơ của tiên sinh ra đời hơn 20 năm trước, đã có một giọng phóng túng
riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ về
văn chương đang sắp mở ra...”. Bài “Cảm thu” của ông đến nay người đọc vẫn cảm
thấy dào dạt xúc động.
Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi
rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve
ngâm
Lá sen tàn tạ trong
đầm
Nặng mang giọt lệ
âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố
quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ,
bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương
Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?...
Về văn xuôi,
tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố là bài tản văn đăng trên "Đông
Dương tạp chí" năm 1915 khi ông mới 26 tuổi. Bút pháp của ông mới ra mắt đã
nổi tiếng đến mức tạp chí này phải mở mục riêng chuyên đăng tải các bài của
ông; nêu nhận xét “Bản quán duyệt qua tập văn của ông thì thấy Nguyễn Khắc Hiếu
là một văn sĩ có biệt tài, có lý tưởng
riêng, ngắm cảnh vật một cách kỳ khôi, mới lạ”.
Năm 1916, Tản
Đà cho ra đời “Giấc mộng con I”, sau đó là “Giấc mộng con II”, kể chuyện thắng
cảnh kỳ vĩ và các danh nhân lịch sử thế giới và nước ta, đưa mọi người viễn du
đến thế giới tươi đẹp, đậm tính nhân văn khác hẳn với xã hội nhiễu nhương đương thời. Tác phẩm của ông cũng phản
ánh hiện thực xã hội với sự phê phán sâu sắc.
Trong bài “Thần tiên”, tác giả mượn lời hai chị em đồng tiền nói với nhau để tố
cáo bọn tham quan bẩn thỉu: “Khi đã vào trong cửa quan, trên thời quan
nha, dưới thời lính tráng, dân sự,
mà các ông ấy để mình nằm trần truồng ra trước công đường. Ngồi đấy, quan thét mắng luôn,
nhưng về các dân sự chứ không phải quát mắng mình, mà thỉnh thoảng quan
lại nhìn mình như có ý thương yêu lắm!”.
Trong bài “Thế
nào là hạng người hạ lưu trong xã hội” đăng ở "Đông Pháp thời
báo" năm 1927, Tản Đà viết: “Nay nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mề đay kim
khánh mà gian tham, xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương, hút máu mủ dân thứ để nuôi
béo vợ con, hiến vợ con cho người ta để giữ bền phú quý. Như thế có phải là hạng người hạ lưu hay
không?”. Ông thể hiện tính cách nhà báo đầy khí phách, dũng cảm trong bối cảnh
xã hội phong kiến thực dân còn khá nặng nề, cái lợi danh chi phối. Trong
bài báo khác, Tản Đà viết: “Nếu trong xã hội ta mà có những ai biết thờ cha
kính mẹ, yêu nước thương nòi,
tức là người thượng lưu vậy”. Bằng
ngòi bút của mình, Tản Đà có nhiều bài châm biếm sâu cay các tệ nạn xã hội
đương thời, bày tỏ tình cảm yêu nước
thương dân:
Này những ai, này những ai
Ai có nghe rằng việc thủy tai
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông, cùng tỉnh Thái
Ruộng ngập nhà chìm, thây chết trôi
Bồng bế con thơ
bán khắp nơi
Năm hào một đứa trẻ lên sáu
Cha còn sống đó, con bồ côi
Và lên án hạng người đục khoét nỗi khổ ải của người dân:
…Đục nước năm nay cò lại béo
Bao nhiêu đê vỡ bấy
nhiêu tiền
…Hơi
đồng đã sạch mồm ông lớn
Mặt sắt còn bia miệng
thế gian…
Bất hạnh và lận đận
Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu người làng Khê Thượng,
huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, Hà Nội). Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền
thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia
có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ này
thề không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là Nguyễn Danh
Kế, do hoàn cảnh gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử
nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong kinh, giữ việc án lý,
nổi tiếng là người có tài văn án
trong triều.
Bà Lưu Thị Hiền
có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao - Nam Định, bà lấy
lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Bà là người
hát hay, có tài làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương duyên giữa
tài tử và giai nhân này.
Thời niên thiếu
của Tản Đà trải nhiều gian truân; năm lên 3 tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình
trở nên cùng túng. Năm sau, vì bất hòa với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại
nghề ca xướng. 8 năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó
(năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn.
Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được người anh cùng cha khác mẹ Nguyễn Tái
Tích nhiệt tình hướng vào con đường
cử nghiệp, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích làm
văn, lại được anh hết lòng chỉ dẫn, nên 14 tuổi đã thạo các lối từ, chương, thi, phú. Năm 15 tuổi, ông đã
nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.
Năm 1909 (Kỷ Dậu), ông tham dự kỳ thi hương ở Nam Định, rồi
trượt trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong thời gian này, ông say mê một
cô gái bán tạp hóa ở phố hàng Bồ. Vì nhà nghèo, không có tiền hỏi cưới, ông đành nuôi hy vọng bằng cách tiếp
tục đường khoa cử. Kỳ thi xảy đến, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị
rớt vì môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi
hương, nhưng lại trượt. Chuyện tình với cô gái tan vỡ, cô đi lấy chồng.
Ông chán nản bỏ về Hòa Bình tìm khuây lãng. Tại đây nhờ sự
giới thiệu của anh rể là nhà thơ
trào phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai
người bạn mới gặp đã như
quen, cùng vào dãy Hương Sơn,
ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo
lối "tịch cốc". Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích mất. Tản Đà về Vĩnh
Yên làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là "Đông Dương tạp
chí" của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục "Một lối văn nôm".
Đến năm 1915,
ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con ông Nguyễn Mạnh Hương tri huyện ở tỉnh Hà
Đông. Ông Hương là thân sinh của nhà văn Nguyễn Tiến Lãng. Cũng năm này
ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông Dương tạp chí", nhanh chóng có
được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa
núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo
chuyên nghiệp.
Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra "Nam Phong tạp
chí", và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm
Quỳnh ca ngợi cuốn "Khối tình con I" và phê phán cuốn "Giấc mộng
con I", cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở
thành một hiện tượng trên văn đàn. Từ
năm 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách, truyện như "Thần tiền",
"Đàn bà Tàu"; sách giáo khoa, luân lý: "Đài gương", "Lên sáu", "Lên
tám"..., thơ thì có tập "Còn chơi" (1921).
Thời kỳ này
ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc,
Trung kỳ và làm chủ bút tờ "Hữu thanh tạp chí". Năm 1922, Tản Đà
thành lập "Tản Đà thư điếm", đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của
ông. Tại đây đã xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp
của Tản Đà: "Tản Đà tùng văn" (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có
truyện "Thề non nước"); "Truyện thế gian" tập I và II,
"Trần ai tri kỷ", "Quốc sử huấn nông", và tập "Thơ Tản Đà". Thư cục này còn xuất
bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
Năm 38 tuổi
(1926), “Hữu Thanh tạp chí” đình bản, Tản Đà cho ra đời "An Nam tạp
chí" số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của "An Nam
tạp chí", tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận
của ông.
Thời kỳ đầu làm chủ "An Nam tạp chí", Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, thường đi du lịch:
khi thì lên đề thơ ở núi Non Nước - Ninh Bình (bài Vịnh hòn đá), khi thì
vào Trung kỳ thăm Phan Sào Nam, khi thì ở Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định
thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng
sống với con tướng Cần Vương đô thống
Thuật. Vì thế tạp chí cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, mang nợ nần, cuộc sống
bế tắc.
Năm 1933, khi
phong trào Thơ Mới nổi lên, "An Nam tạp chí" của Tản Đà chính thức đình
bản sau 3 lần tạm dừng và tái bản. Sự kiện này khi đó bị nhiều người thuộc phe
"Thơ mới" đem ra cười cợt. Do ảnh hưởng của Tân học, Tản Đà, con người thuộc phe cựu học, gần như bị đẩy lui
vào dĩ vãng, nhường chỗ cho
các nhà thơ mới Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư...
Cộng với việc
"An Nam tạp chí" đình bản vĩnh viễn, cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo
túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn,
phải chạy ngược chạy xuôi để kiếm sống. Có khi người ta thấy ông ở khu Bạch Mai
dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, đăng quảng cáo lên mấy tờ báo: "Nhận làm
thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu". Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói.
Những năm cuối đời trải qua hắt hiu, buồn thảm như thế,
nhưng Tản Đà còn được an ủi là ông bỗng được mọi người quan tâm trở lại. Phe
"Thơ mới" sau chiến thắng, đã không còn đả kích Tản Đà. Họ bắt đầu lật
lại những gì Tản Đà đã cống hiến xưa
nay, họ ca ngợi và xem ông như một ông Thánh của làng thơ... Tờ Ngày nay của Tự
Lực văn đoàn, trước kia chê ông tới bến, nay lại mời ông cộng tác, hết lời ca
ngợi những bài thơ Đường do ông dịch. Lúc này sức khỏe của Tản Đà suy yếu, ông
giành hết tâm sức cho việc dịch thuật và biên tập.
Ngày 7-6-1939,
ông mất (50 tuổi) sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, trên cái giường
nát tại nhà riêng số 71 ngã tư Sở, Hà Nội, để lại 7 đứa con. Di thể của ông được an táng tại nghĩa trang
Quảng Thiện, Hà Nội. Nghe tin Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước vừa yên ắng
sau vụ "thơ mới - cũ" lại trở nên xôn xao. Một loạt các bài báo tưởng
niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó. Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in
tác phẩm "Thi nhân Việt Nam" nổi tiếng, đã cung kính đặt Tản
Đà lên ngồi ghế "chủ súy" của Hội Tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước
vào một giai đoạn tươi đẹp mới.
Cô đơn, bế tắc
Trong cuộc đời
của Tản Đà, người ta đếm được có 4 mối tình đã mang lại cho ông nhiều cảm
xúc. Đầu tiên là mối tình tuyệt vọng với cô gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ. Đây là mối
tình trong trắng và say đắm, nhưng không có kết cuộc tốt đẹp. Mối tình này đã
làm ông đau khổ và tạo nên nhiều thi hứng, để làm nên những câu thơ đặc sắc. Trong cuốn "Giấc mộng
con", ông đã viết một bài văn để tả mối tình này. Ông mô tả: "Ở
phố Hàng Bồ số nhà hơn hai mươi về dãy
bên lẻ có một người con gái ngồi bán
hàng tạp hóa, không biết có phải là tuyệt sắc hay không mà tự con mắt mình
khi bấy giờ thì như ngoài người ấy
không có ai là con gái...".
Do không có tiền
cưới hỏi mà chuyện thi cử lại bất thành, Tản Đà đành chấm dứt cuộc tình
thơ mộng. Theo các nhà nghiên cứu thì
đây là chuyện tình đã gây ảnh hưởng
nhiều nhất tới Tản Đà. Sau khi chia tay với mối duyên đầu, ông trở nên chán nản,
buồn bã. Để tìm khuây khỏa, ông đi nhiều nơi. Những câu thơ làm trong
giai đoạn đau khổ này của Tản Đà đã vô tình mở đầu cho một trào lưu về văn học lãng mạn ở Việt Nam. Trước đó ít ai tả những nỗi buồn sâu kín,
như:
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Nhưng ngoài cô
gái hàng Bồ mà người ta thường nhắc còn có ít nhất 3 mối tình thực nữa Tản
Đà đã ghi lại trong thơ. Xem những
câu chuyện trên, người ta tin Tản Đà không nói ngoa khi ông thường nhận mình
là "giống đa tình". Những mối tình đa dạng đã chắp cánh cho thi tài của
ông, khiến ông trở thành một nhà thơ
mở màn cho trào lưu lãng mạn sau này.
Làm báo là một phần trong sự nghiệp rất phong phú của Tản
Đà. Ông có phong cách làm báo đặc biệt, thường xuất hiện trong những cuộc bút
chiến với những giọng điệu khó lẫn. Từng là cộng tác viên cho "Nam
Phong", sau đó do bất đồng với Phạm Quỳnh mà sang làm chủ bút cho "Hữu
Thanh". Về sau ông sáng lập ra "An Nam tạp chí" và chịu đình bản
vì lý do tài chính. Ở giai đoạn cuối đời còn cộng tác với "Văn học tạp
chí" và cả "Ngày nay", tờ báo trước đó đã mạt sát ông nặng nề. Có thể nói sự nghiệp báo chí của Tản
Đà, cũng như cuộc đời của ông, thường
gặp gian nan trắc trở. Song những đóng góp của ông trong buổi sơ khai của báo
chí Việt Nam, là giá trị to lớn mà người đời phải công nhận.
Tờ "An
Nam tạp chí" tuy tổng cộng chỉ có 48 số, lại hoạt động thất thường, thiếu chuyên
nghiệp nhưng được coi là một trong những tờ đầu tiên có những đóng góp tích cực
vào sự phát triển của báo chí - văn học Việt Nam thời cận đại theo khuynh hướng
hiện thực. Bên cạnh đó nó thể hiện một cách kín đáo lòng yêu nước của Tản Đà, qua những bài tiểu luận,
bài thơ đăng rải rác. Bất đắc chí trước thời thế và bất hạnh của chính mình,
Tản Đà cảm thán:
Khi làm chủ báo,
lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng.
Trần gian thước đất vẫn không có
Bút sắt chỉ hơn gì bút lông
Ngày xanh như
ngựa đầu xanh bạc
Chán cả giang hồ, hết cả ngông
(Tiễn ông Công
lên trời)
Với ngòi
bút ngang tàng phóng khoáng cũng có những lúc Tản Đà tự trào với chính mình:
Quê hương
thời có, cửa nhà thời không
Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông
Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì
gió trăng...
Cuối đời ông sống trong nỗi cô đơn, nghèo khó và bế tắc
trước thời cuộc; yêu dân, yêu nước
nhưng bất lực trước tình thế nhiễu nhương:
Cũng phường dối nước quân ăn cắp
Cũng lũ tàn dân giống hại đàn
Lạnh lẽo hơi sương tòa tạp chí
Lệ ai dàn dụa với
giang san!
(Cảm đề)
...Tính cách Tản Đà nhiều người yêu, cũng lắm kẻ ghét vì tác phẩm của
ông nổi bật trên văn đàn, báo chí lúc bấy giờ. Giới trí thức đương thời vẫn phải
thừa nhận nghiệp văn chương, báo chí của ông qua nhiều bài viết: “Trong các
trang thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử sau này, dẫu sao mặc lòng, ông Tản Đà
phải là một người đứng đầu của thời
đại này”.
Sau khi Tản Đà
mất, giới văn chương phê bình có dịp nhìn lại di sản đồ sộ và viết về mọi
thể loại, phản ánh phong phú, độc đáo mọi góc cạnh đời sống xã hội-tinh thần của
ông, đã cho rằng: “Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ súy trong Hội
tài tình. Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn, làng báo xứ này, ai dám ngồi
chung một chiếu với Tản Đà?”.
“Tản Đà là thi
sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ, viết
báo một cách đường hoàng, bạo dạn; dám giữ một bản ngã, một cái tôi. Tản
Đà là người thứ nhất, là người độc
nhất thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt đang hấp hối – tôi không muốn nói là đã
chết rồi. Ông ra đời mang đến cho chúng ta một thi sĩ thành thực, bày tỏ nỗi
lòng với những mơ mộng, chán đời,
yêu đời, thiết tha cuộc sống tự do. Ông đã dám ngông, dám có một bản
ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của mình rải ra trang giấy.”,
Hoài Thanh-Hoài Chân viết trong Thi nhân
Việt Nam.
VIỆT VĂN
Nguồn: ĐTTC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét